Nhà Lý Chia Nước Ta Thành Bao Nhiêu Lộ Phủ – Lý Công Uẩn Lên Ngôi Vua Lập Ra Nhà Lý Vào Năm Nào
Content
- 1 Nhà lý chia nước ta thành bao nhiêu lộ phủ
- 2 Dưới thời lý nước ta chia thành mấy lộ
- 3 Tóm tắt triều đại nhà lý
- 4 Lý công uẩn lên ngôi vua lập ra nhà lý vào năm nào
- 5 Nhà lý tồn tại bao nhiêu năm
- 6 Nhà lý đổi tên nước thành đại việt năm bao nhiêu
- 7 Vị vua đầu tiên của nhà lý là ai
- 8 Đứng đầu các lộ, phủ thời lý là chức quan gì
Nhà lý chia nước ta thành bao nhiêu lộ phủ
Nhà Lý thiết lập và lựa chọn thiết chế chính trị với đặc trưng riêng biệt, được các sử gia gọi là quy mô tập quyền thân dân, với thể chế quân chủ tập quyền mang nhiều điểm khác và vượt xa thời kỳ trước của những triều Ngô, Đinh, Tiền Lê[16]. Cấp hành chính trung ương bao gồm 3 bộ phận chủ yếu, đó là:
- Các cơ quan giúp việc cho Hoàng đế: sảnh, Hàn lâm viện.
- Các cơ quan đầu não của triều đình: Khu mật viện, bộ.
- Các cơ quan giúp việc cho triều đình: viện, ty, cuộc.
Các chức Tướng công, Thái phó được Hoàng đế nhà Lý ban cho những người dân có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển và tinh chỉnh hàng loạt chính quyền. Phụ tá cho những thái phó là Tả Tham tri chính sự, Hữu Tham tri chính vì sự và Hành khiển. Phụ tá cho Thái phó còn tồn tại những cơ quan là Khu mật viện và bộ.
Địa giới phía bắc nước Đại Việt thời Lý bao gồm Bắc bộ Việt Nam lúc bấy giờ và một phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Địa giới hướng phía nam của nhà Lý khi mới xây dựng chỉ tới khu vực Hà Tĩnh hiện nay. Năm 1069, Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, buộc vua Chiêm là Chế Củ dâng 3 châu tương đương với tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị hiện nay. Cương vực này được duy trì ổn định tới khi triều Lý kết thúc. Trên vùng chủ quyền lãnh thổ này, nhà Lý chia toàn quốc thành 24 đơn vị hành chính[17]. Các cấp hành chính ở địa phương lần lượt từ cao xuống thấp là:
- Phủ, lộ, châu, trại.
- Huyện, hương, giáp, phường, sách, động.
Đứng đầu bộ máy hành chính của những phủ, lộ là Tri phủ, Phán phủ; của những châu là Tri châu; của những trại, đạo là Quan mục. Đứng đầu cỗ máy hành chính của những huyện là Huyện lệnh. Dưới huyện là đơn vị giáp và thôn.
Dưới thời lý nước ta chia thành mấy lộ
Nhà Trần vẫn tiếp tục dựa vào quy mô Nhà nước thân dân, thậm chí còn đạt đến độ hoàn thiện. Thời kỳ này nổi lên mô hình coi già làng là người dân có vai trò lớn trong những quyết sách quan trọng của quốc gia.
Nhà Trần đã tiến hành chia lại những đơn vị hành chính. Năm 1242, đổi 24 lộ thời Lý ra làm 12 bộ. Lộ gồm các châu, huyện và xã. Trong triều, nhà Trần đặt thêm nhiều chức quan và những đơn vị chuyên trách mới đã phân phối yêu cầu của cục máy hành chính, trong các số đó có những cơ quan tư pháp như Thẩm hình viện, Tam ty viện do những cơ quan chuyên môn phụ trách, những cơ quan văn hoá giáo dục như Quốc sử viện, Thái y viện… Nhìn chung, nhiều cơ quan được nêu lên thành hệ thống riêng gọi là quán, sảnh, cục, đài, viện.
Ngoài những chức quan dưới triều Lý, nhà Trần có đặt thêm các chức Tư đồ, Tư mà, Tư không, gọi chung là tam tư; Tướng quốc và các chức Đại hành khiển, Tham tri chính sự đứng đầu bách quan. Tướng quốc tương tự Tể tướng. Về đại thể chức trách của tam tư như sau:
Tư đồ: Phụ trách các việc làm ngoại giao, văn hoá, lễ nghi. Do chức năng quan trọng như vậy, tư đồ thường kiêm nhiệm chức tể tướng.
Tư mã: Phụ trách quốc phòng, công an, tư pháp.
Tư không: Phụ trách những yếu tố còn lại.
Nhà Trần phân thành những Thái áp, mục đích là đưa quan lại về những vùng địa phương xử lý tốt hơn quan hệ làng – nước.
Năm 1242, nhà Trần triển khai chia lại các đơn vị hành chính, đổi 24 lộ thời lý ra làm 12 lộ. Ở cấp lộ, đứng đầu là An phủ chánh sứ, có An phủ phó sứ giúp việc (có lộ đặt chức Trần phủ, Thông phán để cai trị).
Lộ chia thành những phủ (miền xuôi), các châu (miền núi), đứng đầu là Tri phủ, Chuyển vận sứ. Phủ, châu lại được chia thành những xã. Hồi đó, chủ trương liên xã đã bắt đầu áp dụng. Theo chủ trương này thì 2, 3 hay 4 xã có những quyền lợi và nghĩa vụ tương tự như thì được họp thành một xã lớn gọi là Liên xã. Đứng đầu Liên xã là những chức quan: Đại tư xã hay Tiểu tư xã do nhà vua chỉ định tùy theo sự quan trọng của Liên xã. Chức Đại tư xã được giao cho những quan từ hàm ngũ phẩm trở lên, còn lại chức Tiểu tư xã được giao cho những quan từ lục phẩm trở xuống đảm nhiệm. Đứng đầu mỗi xã, nhà vua đặt một xã quan gọi là xã chính, ngoài ra còn có xã xứ, xã giám giúp việc.
Các vua Trần đặt lệ nhường ngôi sớm cho con và tự xưng là Thái thượng hoàng, cùng trông nom việc nước.
Nhà Trần quan tâm thiết kế xây dựng lực lượng quân đội. Trai tráng khỏe mạnh được tuyển vào quân đội, thời bình thì ở làng sản xuất, lúc có cuộc chiến tranh thì tham gia chiến đấu.
Ngoài các chức quan tương tự như như thời Lý, nhà Trần lập thêm Hà đê sứ để trong coi việc đắp đê và bảo vệ đê điều; Khuyến nông sứ chăm lo, khuyến khích nông dân sản xuất; Đồn điền sứ tuyển mộ người đi khẩn hoang.
Tóm tắt triều đại nhà lý
Nhà Lý thiết lập và lựa chọn thiết chế chính trị với đặc trưng riêng biệt, được những sử gia gọi là quy mô tập quyền thân dân, với thể chế quân chủ tập quyền mang nhiều điểm khác và vượt xa thời kỳ trước của những triều Ngô, Đinh, Tiền Lê[16]. Cấp hành chính TW gồm có 3 bộ phận chủ yếu, đó là:
- Các cơ quan giúp việc cho Hoàng đế: sảnh, Hàn lâm viện.
- Các cơ quan đầu não của triều đình: Khu mật viện, bộ.
- Các cơ quan giúp việc cho triều đình: viện, ty, cuộc.
Các chức Tướng công, Thái phó được Hoàng đế nhà Lý ban cho những người có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển và tinh chỉnh toàn bộ chính quyền. Phụ tá cho các thái phó là Tả Tham tri chính sự, Hữu Tham tri chính vì sự và Hành khiển. Phụ tá cho Thái phó còn tồn tại những đơn vị là Khu mật viện và bộ.
Địa giới hướng phía bắc nước Đại Việt thời Lý gồm có Bắc bộ Việt Nam lúc bấy giờ và một phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Địa giới hướng phía nam của nhà Lý khi mới xây dựng chỉ tới khu vực Hà Tĩnh hiện nay. Năm 1069, Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, buộc vua Chiêm là Chế Củ dâng 3 châu tương đương với tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị hiện nay. Cương vực này được duy trì ổn định tới khi triều Lý kết thúc. Trên vùng lãnh thổ này, nhà Lý chia cả nước thành 24 đơn vị hành chính[17]. Các cấp hành chính ở địa phương lần lượt từ cao xuống thấp là:
- Phủ, lộ, châu, trại.
- Huyện, hương, giáp, phường, sách, động.
Đứng đầu bộ máy hành chính của những phủ, lộ là Tri phủ, Phán phủ; của những châu là Tri châu; của những trại, đạo là Quan mục. Đứng đầu cỗ máy hành chính của những huyện là Huyện lệnh. Dưới huyện là đơn vị giáp và thôn.
Lý công uẩn lên ngôi vua lập ra nhà lý vào năm nào
Hoa Lư vốn là kinh đô của 2 triều đại Đinh và Tiền Lê, là một vị trí cố thủ tự nhiên Một trong những những mỏm núi đá nằm bên rìa phía Đông Nam đồng bằng sông Hồng, trấn áp tuyến đường đất từ đồng bằng sông Hồng tới những tỉnh phía Nam, cũng là tiền đồn của những tỉnh phía Nam nhìn ra đồng bằng sông Hồng.[8]. Lúc lên ngôi, Lý Thái Tổ nhận định rằng “Hoa Lư thành hẹp, đất thấp”, muốn dời đô về Đại La (nay là Hà Nội)[9]. Nhà vua ra chiếu rằng:
“ | Xưa kia nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần thiên đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần thiên đô, không hẳn là theo ý riêng, mà là nghĩ đến muôn đời sau. Nhà Đinh và Lê không theo lối cũ của Thương, Chu, cứ để kinh đô ở mãi nơi này, trẫm rất đau lòng. Duy có thành Đại La ở giữa khu vực trời đất, có thế long, hổ vững bền, địa thế rộng và bằng phẳng, đất cao mà sáng sủa, rõ là nơi phồn thịnh. Đã xét khắp đất Việt, chỉ có nơi ấy là thắng địa, là kinh đô của muôn đời sau. | ” |
— Chiếu dời đô |
Sử chép rằng những quan đều nhất trí với nhà vua: “Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo”.
Tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) thì khởi sự dời đô. Khi thuyền mới đến đậu ở dưới thành, thấy có con rồng vàng hiện ra, nhân thế đặt tên là Thăng Long, liền lập nhiều cung điện, cộng 13 sở, xây thành lũy, sửa sang phủ khố; thăng châu Cổ Pháp, Bắc Ninh làm phủ Thiên Đức. Thành Hoa Lư gọi là phủ Tràng An, trong phủ Thiên Đức lập 8 ngôi chùa, đều phải có lập bia ghi chép công đức.
Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]
Thời Lý Thái Tổ, Đại Tống và Đại Cồ Việt giữ quan hệ hòa bình. Thái Tổ khi lên ngôi sai Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống để kết hảo. Năm 1010, Tống Chân Tông phong Thái Tổ chức Giao Chỉ quận vương kiêm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, sau lại phong làm Nam Bình vương vào năm 1017. Các nước láng giềng như Chiêm Thành và Chân Lạp cũng thường sang triều cống, việc bang giao thời bấy giờ khá yên trị. Tuy nhiên, năm 1020, Thái Tổ phải sai Lý Phật Mã đánh Chiêm Thành. Đại Việt Sử ký Toàn thư và Đại Việt sử lược chép là quân Việt thắng; song từ thời điểm năm này đến khi Lý Thái Tông chinh phạt Chiêm Thành lần hai năm 1044, sử sách không ghi lại bất kể một lần nào sứ Chiêm sang cống. Năm 1044, Lý Thái Tông có nói với triều thần: “Tiên đế mất đến nay đã 16 năm rồi, mà Chiêm Thành trước đó chưa từng sai một sứ giả nào sang cống”.[10]
Lý Thái Tổ chia quốc gia làm 24 lộ và 2 phần kinh và trại, Hoan Châu và Ái Châu là trại, từ Thanh Hóa trở ra là kinh. Cương mục và Toàn thư chỉ ghi tên 12 lộ: Thiên Trường, Quốc Oai, Hải Đông, Kiến Xương, Hoàng Giang, Long Hưng, Bắc Giang, Trường Yên, Thanh Hóa, Diễn Châu, Khoái, Hồng. Theo Lãnh Nam ngoại đáp, Đại Việt thời Lý chia thành 4 phủ Đô Hộ, Đại Thông, Thanh Hóa, Phú Lương; 13 châu Vĩnh An, Vĩnh Thái, Vạn Xuân, Phong Đạo, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Già Phong, Trà Lô, Yên Phong, Tô, Mậu, Lạng; 3 trại là Hòa Ninh, Đại Bàn, Tân Yên[11].
Quan chế nhà Lý thừa kế nhà Tiền Lê, ban văn – võ có 9 phẩm, 3 chức thái sư, thái phó, thái bảo; 3 chức thiếu sư, thiếu phó, thiểu bảo; cùng thái úy, thiếu úy và nội ngoại hành điện đô tri sự, kiểm hiệu bình chương sự.[12] Ngoài quan ngoài triều đình có những tri phủ và phán phủ cai trị một phủ và tri châu cai trị một châu. Ngoài ra có những châu bậc dưới mà kẻ đứng đầu là thủ lĩnh.[13]
Năm 1013, triều đình định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi Ải quan; thuế sừng tê, ngà voi quý hiếm và hương trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả.[14] Lúc mới lên ngôi, nhà vua miễn thuế cho dân trong 3 năm. Theo Ngô Thì Sĩ, nhà Lý cốt chăm nghề nông cho nước giàu, trong 6 thứ thuế chỉ thu 4, 2 hạng khoan thu.[15]
Quân sự[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 2 năm Thuận Thiên thứ hai (1011), Lý Thái Tổ mang quân đi phạt quân Cử Long ở Ái Châu, bắt người đứng đầu giải về. Tháng 10/1013, ông thân chinh đánh quân Man ở châu Vị Long, lại thắng trận.
Năm 1012, Lý Thái Tổ bình định Diễn Châu, vốn vẫn còn nằm trong lòng bàn tay Lê Long Tung nhà Tiền Lê. Khi đến Vũng Biện thì trời tối đen, gió sấm rất lớn. Thấy vậy, ông đốt hương và khấn trời: “Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp thấp thỏm như sắp sa xuống vực sâu, không đủ can đảm cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, không thể dung tha. Còn trong lúc đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết thêm lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không đủ can đảm oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét”. Sau khi khấn, trời đất quang đãng trở lại.[16]
Năm ấy, người Đại Lý lấn sang quá biên giới, đến bến Kim Hoa và châu Vị Long để buôn bán. Thái Tổ sai quân bắt được người Đại Lý và hơn 1 vạn con ngựa.[17]
Mùa đông, tháng 10, năm 1013 châu Vị Long làm phản, hùa theo người Đại Lý. Vua Lý Thái Tổ mang quân đánh, thủ lĩnh là Hà Án Tuấn sợ, đem đồ đảng trốn vào rừng núi.[17]
Năm 1014, vua Đại Lý sai hai tướng Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí đem 20 vạn quân đánh nước Việt. Quân Đại Lý tiến lên đóng ở bến Kim Hoa, dũng trại Ngũ Hoa. Sau khi châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vinh thông báo, Lý Thái Tổ sai Dực Thánh vương đánh bến Kim Hoa. Quân Việt đánh tan quân Đại Lý, “chém vạn đầu giặc, bắt được quân sĩ và ngựa nhiều vô số” (nguyên văn trong Đại Việt sử lược). Sau chiến thắng, Lý Thái Tổ hạ lệnh cho viên ngoại lang Phùng Chân, Lý Hạc mang 100 ngựa chiến của Đại Lý biếu khuyến mãi vua Tống. Triều đình Tống đối đãi những sứ thần rất hậu. Cùng năm đó, Thái Tổ đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh.[18]
Tháng 12 năm Canh Thân (1020), Lý Thái Tổ sai Khai Thiên vương Lý Phật Mã và Đào Thạc Phụ đem quân đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính, thẳng đến núi Long Tỵ (nay thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình), chém được tướng Chiêm là Bố Linh tại trận, người Chiêm chết đến quá nửa.[17]
Năm 1022, thổ dân Đại Nguyên Lịch – một sắc dân Mán cư trú giữa trại Như Hồng và trấn Triều Dương (Đại Tống) – sang đánh phá biên ải Việt-Tống.[19] Lý Thái Tổ ra lệnh cho Dực Thánh vương đánh dẹp Đại Nguyên Lịch, quân đánh đến châu Như Hồng trong đất Tống, đốt kho tàng, bắt nhiều dân và gia súc rồi kéo về. Sử gia Trung Quốc gốc Việt Lê Tắc đã thuật lại vấn đề này trong sách An Nam chí lược rằng:[17]
- “Tháng 12, Chuyển vận sứ Quảng Tây Cao Huệ Liên dâng thơ nói Giao Châu vào cướp trại Như Hồng thuộc châu Khâm, bắt người và súc vật rất nhiều. Vua [Tống Chân Tông] xuống chiếu khiến Huệ Liên tư điệp văn cho Giao Châu và sai sứ theo đòi lại. Nguyên trước kia có dân Mường là Trương Phố, lánh tội chạy đến đầu ngụ, quan cai trị Khâm Châu là Mục Trọng vời vào, đi đến nửa đường lại ngăn không cho vào. Đô Tuần Kiểm Tàng Tự bèn khiến trại Như Hồng khao đãi trâu rượu. Giao Châu dò biết được việc ấy, bèn nhân đuổi bắt dân Mường, đánh cướp luôn trại Như Hồng. Vua [Tống Chân Tông] xuống chiếu thư bảo những châu từ lúc này không được dụ vời quân tàn tệ và khao đãi yến tiệc, đến đỗi sinh sự.”
Năm 1024, Lý Thái Tổ sai Thái tử Lý Phật Mã đem quân đánh châu Phong Luân, còn Khai Quốc vương thì đánh châu Đô Kim. Cùng năm đó, nhà vua tu sửa thành Thăng Long.[17][20]
Năm 1028, Thái tử lại được lệnh đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh vương cũng đi đánh châu Văn.[21]
Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]
Lý Thái Tổ xuất thân từ chùa chiền, sau khi lên ngôi rất hậu đãi giới tăng lữ. Vào năm 1010, sau lúc đã dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, việc tiên phong ông làm là liền xuất ra 2 vạn quan để làm chùa ở phủ Thiên Đức (tức Cổ Pháp).[22]
Tháng 12 năm Canh Tuất (năm 1010 dương lịch), Lý Thái Tổ sai sứ sang nước Tống để thỉnh tầm cỡ Phật giáo. Tống Chân Tông chấp thuận, trao cho vua Lý kinh Địa Tạng cùng với chữ ngự bút do chính tay vua Tống viết.[23]
Cùng năm, sau lúc đã được kiến thiết xây dựng Hoàng thành, ông lại chùa ngự Hưng Thiên và tinh lâu Ngũ Phượng. Ngoài thành về phía nam dựng chùa Thắng Nghiêm.
Tháng 6 năm Mậu Ngọ (1018), Lý Thái Tổ lại sai viên ngoại lang Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nước Đại Tống thỉnh Tam tạng kinh đem lại để vào kho Đại Hưng.[24][25]
Tháng 9 năm Giáp Tý (1024), Thái Tổ sai dựng chùa Chân Giáo trong nội đô Thăng Long, để nhà vua lui tới nghe kinh pháp.[26]
Về việc này, Lê Văn Hưu nhận xét: …Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở những lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể.
Nhà lý tồn tại bao nhiêu năm
- Tên đầy đủ: Lý Nhật Tôn
- Niên hiệu: Long Thụy Thái Bình (1054-1058), Thiên Thánh Gia Khánh (1059-1065), Long Chương Thiên Tự (1066-1068), Thiên Thống Bảo Tượng (1068-1069), Thần Vũ (1069-1072)
- Thụy hiệu: Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Trường Minh Văn Duệ Võ Hiếu Đứng Thánh Thần Hoàng đế
- Miếu hiệu: Thánh Tông
- Sinh: 30 tháng 3 năm 1023
- Mất: 1 tháng hai năm 1072 (48 tuổi)
- Tại vị: 3 tháng 11 năm 1054 – 1 tháng 2 năm 1072 (17 năm, 90 ngày)
- An táng: Thọ Lăng
Lý Thánh Tông (30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072) là vị nhà vua thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị vì từ thời điểm tháng 11 năm 1054 đến khi qua đời năm 1072. Trong thời kỳ cầm quyền của mình, Lý Thánh Tông đã tăng cường sản xuất nông nghiệp, khoan giảm hình phạt, đồng thời bảo trợ Phật giáo và Nho giáo. Ông còn xây dựng quân đội Đại Việt hùng mạnh, thực hiện chủ trương đối ngoại cứng rắn với Đại Tống và mở đất về ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (nay là một phần thuộc Quảng Bình và Quảng Trị, Bắc Trung Bộ Việt Nam) sau thắng lợi trong đại cuộc chiến tranh Việt – Chiêm (1069). Sử thần đời Hậu Lê Ngô Sĩ Liên viết về Lý Thánh Tông: “Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc vua tốt”.
Thời đại của cha ông là Lý Thái Tông, ông và con ông là Lý Nhân Tông sẽ là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế.
- Tên đầy đủ: Lý Càn Đức
- Niên hiệu: Thái Ninh (1072-1076), Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084), Quảng Hựu (1085-1092), Hội Phong (1092-1100), Long Phù (1101-1109), Hội Tường Đại Khánh (1110-1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127-1127)
- Thụy hiệu: Hiếu Thiên Thể Đạo Thánh Văn Thần Vũ Sùng Nhân Ý Nghĩa Hiếu Từ Thuần Thành Minh Hiếu Hoàng Đế
- Miếu hiệu: Nhân Tông
- Sinh: 22 tháng hai năm 1066, Cung Động Tiên, Thăng Long
- Mất: 15 tháng 1 năm 1128 (61 tuổi), Điện Vĩnh Quang, Thăng Long
- Tại vị: 1072 – 1128
- An táng: Lăng Thiên Đức
Lý Nhân Tông (22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại Việt từ năm 1072 đến năm 1128, tổng số 56 năm, cũng là vị vua có thời hạn trị vì lâu nhất trong lịch sử vẻ vang phong kiến Việt Nam.
Dưới thời trị vì của Nhân Tông, nước Việt phồn vinh, “dân được giàu đông”. Ông rất chăm sóc đến nông nghiệp – thủy lợi, đã cho đắp đê ở nhiều nơi và mở rộng luật cấm giết trâu. Thời Nhân Tông còn nổi bật với việc tổ chức triển khai khoa thi Nho học tiên phong của Đại Việt (1075) và kiến thiết xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám (1076). Phật giáo cũng phát triển; nhà vua và mẹ là Linh Nhân đều là những Phật tử mộ đạo, đã cho xây nhiều chùa tháp và khuyến khích việc hành đạo của những thiền sư. Về đối ngoại, năm 1075, đế quốc Tống dòm ngó Đại Việt, Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đi đánh, liên tiếp phá vỡ quân Tống ở 3 châu Ung, Khâm, Liêm (đất Tống) và sông Như Nguyệt (đất Việt). Sau năm 1077, giữa Việt và Tống không hề đại chiến lớn nào. Trong khi đó các nước Chiêm Thành, Chân Lạp thần phục Đại Việt, thường gửi sứ sang cống.
Tuy ở ngôi lâu năm, Lý Nhân Tông không còn con trai để nối dõi. Ông nhận nuôi một người cháu là Lý Dương Hoán rồi lập làm thái tử. Đó là Lý Thần Tông, làm vua trong vòng 11 năm tiếp theo khi Nhân Tông mất. Thời đại của Lý Nhân Tông cùng với ông nội là Lý Thái Tông và cha là Lý Thánh Tông sẽ là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế.
- Tên đầy đủ: Lý Dương Hoán
- Niên hiệu: Thiên Thuận (1128-1132), Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138)
- Thụy hiệu: Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Vũ Hoàng đế
- Tôn hiệu: Thuận Thiên Quảng Vận Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng đế, ThuậnThiên Duệ Vũ Tường Linh Cảm Ứng Khoan Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế
- Miếu hiệu: Thần Tông
- Sinh: năm 1116, Thăng Long
- Mất: 31 tháng 10 năm 1138, Điện Vĩnh Quang, Thăng Long
- Tại vị: 1128 – 1138
- An táng: ThọLăng
Lý Thần Tông (1116 – 1138) là vị nhà vua thứ năm của triều đại nhà Lý nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1128 đến khi qua đời năm 1138, tổng số là 10 năm.
Dù lên ngôi khi mới 11 tuổi, Lý Thần Tông đã tin dùng những người dân phụ chính như Trương Bá Ngọc, Dương Anh Nhị và Lý Công Bình, triển khai chủ trương quản lý khoan dung và duy trì sự không thay đổi của Đại Việt. Thời này Chân Lạp và Chiêm Thành vài lần đánh phá nước Việt, Thần Tông phải sai tướng đi đánh đuổi. Bên cạnh đó, Thần Tông bị sử sách phê phán vì quá mê tín dị đoan vào những “điềm làn”
Nhà lý đổi tên nước thành đại việt năm bao nhiêu
Đại Việt là tên nước sống sót lâu nhất và gần như là xuyên thấu trong thời đại phong kiến của đất Việt. Quốc hiệu này được sử dụng trong thời đại bao gồm: thời Lý, thời Trần, thời Hậu Lê, thời Mạc, thời Tây Sơn, đầu thời nhà Nguyễn.
Trong thời kỳ Đại Việt, các vương triều đều triển khai hoạt động giải trí bộ máy chính quyền sở tại theo xu hướng TW tập quyền. Mô hình cỗ máy nhà nước này được kiến thiết xây dựng theo hệ tư tưởng Nho giáo và quy mô của thời Đường, Tống, Minh của Trung Quốc. Chính nhờ mô hình từ từ trung ương đến cơ sở, nhà nước phong kiến Việt Nam đã đạt đến mức thịnh đạt nhất.
Đại Việt là một vương quốc có nền nông nghiệp trồng lúa nước cực kỳ phát triển. Là nghề truyền thống cuội nguồn nhưng các triều đại của nước Đại Việt luôn hết sức chú trọng đến việc tăng trưởng nông nghiệp trồng lúa nước. Việc đắp đê, làm thủy lợi được quan tâm, đơn cử như:
Nhà Lý cho đắp đê quai vạc, đê Cơ Xá.
Nhà Hậu Lê cho đắp đê biển Hồng Đức, đào kênh.
Đặc biệt, nhà Hậu Lê sơ còn phát hành chủ trương “quân điền” nhằm tạo điều kiện kèm theo cho nhà nước huy động nhân lực, vật lực. Điều này vừa giúp Phục hồi và tăng trưởng kinh tế tài chính nông nghiệp, vừa tương hỗ cho quốc phòng và chiến tranh.
Giáo dục ở thời kỳ Đại Việt cũng rất phát triển. Tiền đề của điều đó đó chính là sự việc nhà Lý cho thiết kế xây dựng Văn Miếu vào năm 1070. Sau đó đến năm 1075, khoa thi tiên phong đã được tổ chức. Ngay tiếp sau đó vào năm 1076, nhà Lý đã và đang cho thành lập trường ĐH tiên phong của Đại Việt – Quốc Tử Giám. Đây đó chính là cơ sở tạo ra nền nóng cơ bản của Đại Việt, là nói sản sinh ra những tầng lớp trí thức Nho học.
Trong thời kỳ Đại Việt, đời sống tôn giáo và tín ngưỡng là sự dung hòa của những tư tưởng lớn: Phật – Đạo – Nho.
Các triều đại của Đại Việt đều lựa chọn t những chủ trương hòa hiếu mềm dẻo trong ngoại giao. Tuy nhiên, sự nhất quyết trong nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền chủ quyền lãnh thổ cùng là điều được đề cao. Đấu đấu tranh ngoại giao kết hợp cùng hoạt động giải trí quân sự là chủ trương vào thời kỳ cuộc chiến tranh của những triều đại phong kiến của Đại Việt. Trong hơn 700 của nước Đại Việt, dân tộc bản địa ta đã trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vĩ đại:
Chống nhà Tống năm 1076.
3 lần chống giặc Nguyên Mông các năm 1258; 1285; 1288.
Chống nhà Minh 1418 – 1428.
Vị vua đầu tiên của nhà lý là ai
Nhà Lý thiết lập và lựa chọn thiết chế chính trị với đặc trưng riêng biệt, được những sử gia gọi là mô hình tập quyền thân dân, với thể chế quân chủ tập quyền mang nhiều điểm khác và vượt xa thời kỳ trước của những triều Ngô, Đinh, Tiền Lê[16]. Cấp hành chính trung ương bao gồm 3 bộ phận chủ yếu, đó là:
- Các cơ quan giúp việc cho Hoàng đế: sảnh, Hàn lâm viện.
- Các cơ quan đầu não của triều đình: Khu mật viện, bộ.
- Các cơ quan giúp việc cho triều đình: viện, ty, cuộc.
Các chức Tướng công, Thái phó được Hoàng đế nhà Lý ban cho những người dân có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển hàng loạt chính quyền. Phụ tá cho những thái phó là Tả Tham tri chính sự, Hữu Tham tri chính vì sự và Hành khiển. Phụ tá cho Thái phó còn có những cơ quan là Khu mật viện và bộ.
Địa giới hướng phía bắc nước Đại Việt thời Lý gồm có Bắc bộ Việt Nam lúc bấy giờ và một phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Địa giới hướng phía nam của nhà Lý khi mới thành lập chỉ tới khu vực Hà Tĩnh hiện nay. Năm 1069, Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, buộc vua Chiêm là Chế Củ dâng 3 châu tương tự với tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị hiện nay. Cương vực này được duy trì không thay đổi tới khi triều Lý kết thúc. Trên vùng lãnh thổ này, nhà Lý chia toàn quốc thành 24 đơn vị hành chính[17]. Các cấp hành chính ở địa phương lần lượt từ cao xuống thấp là:
- Phủ, lộ, châu, trại.
- Huyện, hương, giáp, phường, sách, động.
Đứng đầu bộ máy hành chính của những phủ, lộ là Tri phủ, Phán phủ; của những châu là Tri châu; của những trại, đạo là Quan mục. Đứng đầu cỗ máy hành chính của các huyện là Huyện lệnh. Dưới huyện là đơn vị chức năng giáp và thôn.
Đứng đầu các lộ, phủ thời lý là chức quan gì
Sau khi thành lập triều Lý, Lý Thái Tổ liền tiến hành sắp xếp lại những đơn vị chức năng hành chính địa phương. Phủ Thiên Đức và phủ Thiên Trường được thành lập. Các đạo thời Đinh, Tiền Lê bị thay thế sửa chữa bằng các lộ nếu là ở đồng bằng, là châu, trại nếu là vùng rừng núi hoặc vùng xa kinh đô. Về sau còn lập thêm phủ Thanh Hóa (Thanh Hóa ngày nay), đạo Lâm Tây (vùng Tây Bắc ngày nay).
Đào Duy Anh nhận định rằng từ Lý Thái Tổ sắp xếp những phủ, châu đến thời Lý Thánh Tông lan rộng ra đất đai về hướng phía nam (năm 1069) thì toàn bộ 24 đơn vị chức năng hành chính của nước Đại Việt bao gồm[1]:
- Phủ Đô hộ: là phụ quách của kinh thành Thăng Long, tức một phần thành phố Hà Nội (chưa gồm có phần lan rộng ra thuộc Hà Tây cũ)
- Phủ Ứng Thiên, tương tự một phần thành phố Hà Nội (chưa bao gồm phần mở rộng thuộc Hà Tây cũ)
- Lộ Thiên Trường, tương tự tỉnh Nam Định hiện nay
- Lộ Quốc Oai, tương tự lưu vực sông Đáy thuộc tỉnh Hà Tây cũ
- Lộ Hải Đông, tương tự miền Quảng Ninh
- Lộ Kiến Xương, tương tự một phần tỉnh Thái Bình
- Lộ Long Hưng, tương tự một phần tỉnh Thái Bình
- Lộ Khoái, tương tự tỉnh Hưng Yên
- Lộ Hoàng Giang, tương tự tỉnh Hà Nam
- Lộ Bắc Giang, tương tự tỉnh Bắc Giang
- Lộ Trường Yên, tức là tỉnh Ninh Bình
- Lộ Hồng, tương tự với tỉnh Hải Dương, Hải Phòng
- Lộ Thanh Hóa, tương tự khu vực tỉnh Thanh Hóa
- Lộ Diễn Châu, tương đương vùng Bắc Nghệ An
- Phủ Phú Lương, tương đương tỉnh Thái Nguyên
- Phủ Thiên Đức (vốn là châu Cổ Pháp) tương đương tỉnh Bắc Ninh
- Phủ Nghệ An tương đương tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh
- Châu Lạng tương đương miền Lạng Sơn và Cao Bằng
- Châu Phong tương đương vùng Phú Thọ, Yên Bái
- Châu Chân Đăng tương đương với vùng Hà Giang
- Đạo Lâm Tây tương đương với Tuyên Quang
- Châu Bố Chính, mở từ thời điểm năm 1069, tương đương hướng hướng phía bắc tỉnh Quảng Bình
- Châu Địa Lý, mở từ thời điểm năm 1069, sau đổi là Lâm Bình, tương đương phía nam tỉnh Quảng Bình
- Châu Ma Linh mở từ thời điểm năm 1069, sau đổi là Minh Linh, tương đương phía bắc tỉnh Quảng Trị
Đứng đầu bộ máy hành chính của những phủ, lộ là tri phủ, phán phủ, của những châu là tri châu, của những trại, đạo là quan mục. Riêng phủ Đô hộ đứng đầu là sĩ sư[2].
Ngoài những châu lớn tương tự với những lộ, phủ, sử sách còn nhắc đến những châu nhỏ nhưng không đầy đủ[3]:
- Thuộc Tuyên Quang lúc bấy giờ gồm có: châu Vị Long (Chiêm Hóa, Tuyên Quang), Đô Kim (Hàm Yên, Tuyên Quang)
- Thuộc ven biển Hải Phòng: châu Vĩnh An, châu Tô Mậu
- Thuộc Lạng Sơn: châu Thất Nguyên (Thất Khê, Lạng Sơn), châu Văn (Văn Uyên, Lạng Sơn), châu Quang Lang, châu Tây Nùng (hay Tây Nông)
- Thuộc Bắc Kạn: châu Thượng Nguyên
- Thuộc Yên Bái: châu Định Nguyên
- Thuộc Hà Giang: châu Bình Nguyên, châu Thường Tân (khu vực Tuyên Quang, Hà Giang),
- Thuộc Cao Bằng: châu Quảng Nguyên (Quảng Uyên, Cao Bằng), châu Thảng Do, châu Bình, châu Bà
- Thuộc Bắc Ninh: châu Vũ Ninh (huyện Võ Giàng, Bắc Ninh)
- Thuộc Quảng Tây, Trung Quốc: châu Lôi Hỏa (phía tây-bắc tỉnh Cao Bằng)
Các phủ, lộ được phân thành những huyện. Đứng đầu cỗ máy hành của những huyện là huyện lệnh. Cùng cấp với huyện là hương. Tương đương với những huyện nhưng ở kinh đô thì có những phường. Thời Lý có 61 phường.
Các tư liệu lịch sử cũ cho biết thêm thời Lý còn tồn tại các đơn vị chức năng hành chính gọi là hương mà Trần Thị Vinh (2008) cho rằng cùng cấp với huyện.
Các huyện, hương lại chia thành các giáp. Đứng đầu bộ máy hành chính ở giáp là quản giáp và chủ đô. Các giáp lại chia thành những thôn.
Blog -Lễ Lá Ngày Bao Nhiêu – Các Ngày Lễ Công Giáo 2023
Có Bao Nhiêu Hình Vuông – Có Bao Nhiêu Hình Vuông Toán Lớp 1
Chè Khúc Bạch Bao Nhiêu Calo – Chè Thái Bao Nhiêu Calo
Bán Giấy Vụn Bao Nhiêu Tiền 1Kg – Bán Giấy Vụn Ở Đâu
45 Tuổi Sinh Năm Bao Nhiêu – Sinh Năm 1976 Bao Nhiêu Tuổi
3 5 Bằng Bao Nhiêu – 7 / 3,5 Bằng Bao Nhiêu
2 Tấn 500Kg Bằng Bao Nhiêu Kg – 2 Tạ 40Kg Bằng Bao Nhiêu Kg