Arsenal Vô Địch Ngoại Hạng Anh Bao Nhiêu Lần – Arsenal Vô Địch C1 Bao Nhiều Lần
Content
- 1 Arsenal vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
- 2 Arsenal vô địch c1 bao nhiều lần
- 3 Arsenal vô địch ngoại hạng anh năm nào
- 4 Chelsea vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
- 5 Liverpool vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
- 6 Lần gần nhất arsenal vô địch ngoại hạng anh
- 7 Mu vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
- 8 Tottenham vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
Arsenal vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
Chỉ với ba trận thua trong hàng loạt chiến dịch, Arsenal đã giành được chức vô địch Ngoại hạng Anh lần thứ hai trong kỉ nguyên mới, hơn đội nhì bảng Liverpool 7 điểm vào cuối mùa.
Pháo thủ chỉ để mất tổng cộng 10 điểm trên sân khách. Sau khi để thua Newcastle vào trong ngày 18/12, Arsenal đã bất bại trong suốt chặng đường còn lại, kết thúc mùa giải với 18 trận thắng và 3 trận hòa, gồm có cả chuỗi 13 trận toàn thắng.
Thierry Henry đã ghi được 24 bàn thắng và chứng minh và khẳng định mình là tay săn bàn hàng đầu của giải đấu, trong lúc Robert Pires giành được phần thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm do Hiệp hội Nhà báo Bóng đá Anh trao tặng. Tony Adams và Lee Dixon đều giải nghệ vào thời điểm cuối mùa giải.
Arsenal vô địch c1 bao nhiều lần
Ngoài việc biết được Arsenal vô địch C1 mấy lần thì sau đấy là một số thực sự đáng kinh ngạc mà bạn hoàn toàn có thể chưa chắc chắn về Pháo thủ thành London.
Được đặt tên cho một trạm tàu điện ngầm
Arsenal là đội bóng đá duy nhất có một trạm tàu điện ngầm được đặt tên theo câu lạc bộ. Đó là ga tàu điện ngầm Arsenal nằm ở khu vực đường Piccadilly Line, giữa Manor House và đường Holloway.
Phép màu tại Milan
Với thắng lợi 1–5 trước Inter Milan năm 2003 và chiến thắng 0–2 trước AC Milan năm 2008. Arsenal trở thành đội bóng Anh duy nhất đánh bại cả hai đội Milan tại San Siro.
Nguồn gốc về huy hiệu, biệt danh của Arsenal
Trong tiếng Anh, từ Arsenal có nghĩa là kho chứa vũ khí hoặc đồ quân dụng. Tháng 10 năm 1886, David Danskin cùng 15 người công nhân làm đại bác thành lập câu lạc bộ và lấy tên theo tên khu phức hợp Royal Arsenal ở Woolwich, London.
Đội bóng ưa thích của giới truyền thông
Trận đấu trên sân nhà giữa Arsenal và Sheffield United vào trong ngày 22 tháng một năm 1927 là trận đấu tiên phong trong lịch sử dân tộc dân tộc bóng đá Anh được truyền hình trực tiếp trên đài phát thanh.
Mười năm sau, vào trong ngày 16 tháng 9 năm 1937, trận giao hữu giữa đội một và đội dự bị của Arsenal trở thành trận đấu tiên phong được truyền hình trực tiếp.
Sau đó, vào trong ngày 31 tháng một năm 2010, Arsenal tiếp Manchester United tại Emirates và đây là trận đấu đầu tiên được truyền hình trực tiếp dưới dạng 3D.
Trận hòa 12 bàn thắng với nửa tá mỗi bên
Pháo thủ thành London là đội bị cầm hòa nhiều nhất và ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử. Dưới sự dẫn dắt của huấn luyện và đào tạo viên Chapman, hơn 27.000 người ở Filbert Street – sân nhà cũ của CLB Leicester City – đã chứng kiến trận hòa 6-6 của đội nhà trước CLB Arsenal vào trong ngày 21/4/1930. Và nhân vật chính của trận đấu đó chính là David Halliday của Arsenal với 4 bàn thắng.
Dùng trà với nữ hoàng Elizabeth II
Arsenal là câu lạc bộ duy nhất của Anh dùng trà với Nữ hoàng Elizabeth II vào năm 2006. Lẽ ra, thời hạn này nữ hoàng sẽ là người khánh thành sân hoạt động Emirates nhưng không hề tham gia vì bị đau lưng. Người thay thế sửa chữa bà là Công tước xứ Edinburgh (chồng của Nữ hoàng).
Arsenal vô địch ngoại hạng anh năm nào
Arsenal giành tổng số 13 chức vô địch quốc gia, đứng thứ ba chỉ với sau Manchester United (với 20 chức vô địch) và Liverpool (18 chức vô địch).[162] Họ là đội bóng giành được nhiều chiếc Cúp FA nhất trong lịch sử dân tộc với 13 chiếc trong phòng truyền thống.[163][164] Arsenal đã có thời điểm từng đoạt được ba cú đúp thương hiệu vô địch vương quốc và FA Cup (vào những năm 1971, 1998, 2002), thành tích này ngang bằng với Manchester United (vào các năm 1994, 1996, 1999),[29][165] và họ cũng là đội bóng tiên phong giành được cú đúp Cúp FA và Cúp Liên đoàn Anh (vào năm 1993).[166] Arsenal cũng là câu lạc bộ Luân Đôn đầu tiên lọt đến một trận chung kết Champions League, vào năm 2006, lúc đó họ thua 1–2 trước Barcelona.[167]
Arsenal là một Một trong những câu lạc bộ có một vị trí tốt nhất ở giải vô địch vương quốc trong lịch sử, với việc chỉ 7 lần kết thúc mùa giải tại đoạn từ 15 trở xuống. Họ là đội bóng có thứ tầm trung bình sau khi kết thúc mùa giải cao nhất thế kỷ XX, với thứ hạng trung bình là 8,5.[168] Ngoài ra, họ là một trong những sáu câu lạc bộ đoạt Cúp FA gấp đôi liên tiếp, vào những năm 2002 và 2003; năm trước và 2015.[169] Arsenal cũng giữ kỷ lục về số trận bất bại dài nhất trong khuôn khổ Giải bóng đá Ngoại hạng Anh với 49 trận, và là đội bóng duy nhất cho đến thời điểm bây giờ có một mùa giải bất bại ở giải đấu này (mùa giải 2003-04).[170]
David O’Leary hiện giờ đang nắm giữ kỷ lục số trận ra sân nhiều nhất cho Arsenal, với 722 trận đấu trong số những năm 1975-1993. Người đồng đội, trung vệ và cũng là cựu đội trưởng của Arsenal, Tony Adams đứng thứ hai, với 669 lần ra sân. Thủ môn ra sân nhiều nhất cho Arsenal là David Seaman, với 564 lần.[171]
Thierry Henry là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất cho câu lạc bộ, với 228 bàn thắng từ thời điểm năm 1999 đến 2007 và đầu xuân 2012,[172] vượt qua kỷ lục của Ian Wright với 185 bàn thắng lập được vào tháng 10 năm 2005.[173] Kỷ lục của Wright tại vị từ tháng 9 năm 1997 khi cầu thủ này vượt qua mốc 178 bàn của cầu thủ chạy cánh Cliff Bastin lập được vào năm 1939.[174] Henry cũng là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất tại giải vô địch quốc gia cho câu lạc bộ với 175 bàn,[172] một kỷ lục mà Bastin đã lập và đứng vững tới tháng hai năm 2006.[175]
Kỷ lục về số cổ động viên dự một trận đấu trên sân nhà của Arsenal là 73.707 khán giả, trong trận cúp C1 châu Âu với RC Lens vào trong ngày 25 tháng 11 năm 1998, trên sân hoạt động Wembley, nơi mà trước đây đội bóng chơi những trận đấu tại cúp châu Âu vì những vướng mắc về sân vận động Highbury. Kỷ lục về số cổ động viên dự một trận đấu tại Highbury là 73.295 người, trong trận hòa 0–0 với Sunderland ngày 9 tháng 3 năm 1935.[171] Còn đối với kỷ lục về số cổ động viên trên sân Emirates thì số lượng là 60.161 người, trong trận hòa 2–2 với Manchester United vào trong ngày 3 tháng 11 năm 2007.[176]
Arsenal đã và đang làm nên kỷ lục của bóng đá Anh, khi trở thành đội bóng có rất nhiều mùa giải nhất tại giải vô địch quốc gia trong lịch sử (88 mùa giải tính đến 2014–15) và có chuỗi trận bất bại dài nhất tại giải vô địch quốc gia (với 49 trận từ thời điểm ngày 7 tháng 5 năm 2003 đến 24 tháng 10 năm 2004).[43] Chuỗi trận bất bại này bao gồm cả 38 trận đấu của mùa giải 2003–04, giúp Arsenal trở thành đội bóng thứ hai sau Preston North End (cách mùa giải đó 115 năm) có một mùa giải bất bại.[41]
Arsenal cũng đã lập kỷ lục giữ sạch lưới tại cúp C1 châu Âu 2005–06 với 10 trận không để đối phương chọc thủng lưới. Họ đã có tổng số 995 phút không để thủng lưới, và kết thúc bởi bàn thắng của cầu thủ Barcelona, Samuel Eto’o ở phút thứ 76 trong trận chung kết.[45]
Chelsea vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
Khi Roman Abramovich lên nắm quyền tại Chelsea, ông chủ người Nga này đã chi ra rất nhiều tiền nhằm mục đích thiết kế xây dựng Chelsea trở thành đội bóng vĩ đại nhất xứ sở sương mù. Mùa giải tiên phong khi Abramovich chính thức ngồi vào chiếc ghế chủ tịch Chelsea, ông đã chi ra số tiền hơn 111 triệu bảng Anh, để đem về những cầu thủ chất lượng. Có thể nói tới như Hernán Crespo từ Inter Milan giá 17 triệu bảng, Adrian Mutu với 16 triệu bảng hay ký hợp đồng với một trong số những tiền vệ tịch thu bóng xuất sắc nhất thế giới, Claude Makélélé của Real Madrid với mức phí 16 triệu bảng. Tuy nhiên mùa giải này Chelsea không thể giành thương hiệu nào, khiến Abramovich không hài lòng.
Hệ quả sau đó, Chelsea đã có huấn luyện viên mới, một người Bồ Đào Nha, José Mourinho. Từ đó Abramovich ưu tiên mua những cầu thủ quốc tịch Bồ Đào Nha hay những cầu thủ mà Mourinho nhu yếu để thuận tiện thao tác với Người đặc biệt. Lần lượt Paulo Ferreira, Ricardo Carvalho, Michael Essien và chân sút xuất sắc sau này của Chelsea là Didier Drogba đều đến Luân Đôn chơi bóng. Với kế hoạch chuyển nhượng hiệu quả, Chelsea mùa giải đó đã lên ngôi vô địch Ngoại hạng Anh sau hơn 50 năm và tiếp tục bảo vệ thành công chức vô địch một năm tiếp theo đó.
Tuy nhiên trong thời hạn sau, Abramovich khởi đầu nhúng tay vào trình độ gây ảnh hưởng tác động đến thành tích của Chelsea. Ông ký hợp đồng với tiền đạo Andriy Shevchenko khi đó đã 29 tuổi với mức phí cao ngất ngưỡng 30 triệu bảng. Có những tin đồn nhận định rằng Abramovich chiêu mộ chân sút người Ukraine chỉ vì Shevchenko có quan hệ bạn bè thân thương với chủ tịch của Chelsea. Và sau đó Shevchenko tranh tài không thật thành công xuất sắc trong màu áo The Blues, liên tục bị Mourinho cho ngồi dự bị và dẫn đến sự rạn nứt giữa Người đặc biệt quan trọng với ông chủ người Nga.
Sự can thiệp của Abramovich đã làm ngân sách Chelsea thu hẹp, dẫn đến việc tiêu tốn lặt vặt vào thị trường chuyển nhượng khiến Chelsea mất vị thế ở Giải Ngoại Hạng. Vào kỳ chuyển nhượng ủy quyền mùa Đông năm 2011, Chelsea khi đó đang là Đương kim vô địch của Giải đã tranh tài bết bát, hàng công mờ nhạt, hàng thủ chắp vá, Abramovich đã mang về sân Stamford Bridge tiền đạo Fernando Torres của Liverpool với giá kỷ lục của CLB là 50 triệu bảng Anh và trung vệ David Luiz của Benfica với 25 triệu bảng, Tuy nhiên chỉ một trong hai bản hợp đồng thi đấu thành công. Trong khi Luiz là thủ lĩnh hàng thủ thì Torres lại mờ nhạt trên hàng công. Điều này dẫn đến một mùa giải trắng tay của Chelsea.
Mùa giải tiếp theo, với mong ước chinh phục UEFA Champions League, Chelsea đã chiêu mộ một vài tiền vệ thiết kế xuất sắc nhất ở Tây Ban Nha, Juan Mata với mức phí chuyển nhượng ủy quyền 24 triệu bảng. Và mong muốn của Abramovich đã thành hiện thực, Mata góp công lớn giúp Chelsea đăng quang chức vô địch vào thời điểm cuối mùa giải đó. Mùa hè sang năm, với việc vô địch châu Âu, Stamford Bridge trở thành điểm đến chọn lựa của nhiêu ngôi sao trên thế giới. Chelsea tiếp tục ký hợp đồng với tiền vệ cánh Eden Hazard giá 32 triệu bảng và Oscar dos Santos với 23 triệu bảng. Mặc dù không hề bảo vệ ngôi vô địch tại đấu trường hạng nhất châu Âu, nhưng cặp đôi này cũng giúp The Blues đăng quang tại UEFA Europa League năm 2013.
Vào năm 2014, mùa giải thứ hai trong nhiệm kỳ thứ hai của José Mourinho tại Chelsea, CLB đã lần lượt chia tay những công thần Frank Lampard, Ashley Cole, Fernando Torres ở cả ba tuyến và để chiều theo mong muốn của Mourinho, Abramovich đã chiêu mộ Diego Costa, Cesc Fabregas và Filipe Luís với tổng trị giá hơn 70 triệu bảng. Mùa giải đó, Diego Costa tỏ chứng tỏ giá trị của tớ với 20 pha lập công, còn tiền vệ Cesc Fabregas đóng vai trò nhạc trưởng đã phát huy đúng sở trường của mình và sự đáp ứng về nhu yếu này đã hỗ trợ Chelsea vô địch giải Ngoại hạng Anh vào cuối mùa, đồng thời đánh bại Tottenham Hotspur với tỉ số 2-0 trong đó có một bàn thắng của bản hợp đồng đầu mùa Diego Costa để giành lấy Cúp Liên Đoàn.
Mùa giải sau đó, Roman Abramovich chỉ đem về một bản hợp đồng lớn là Pedro Rodríguez từ Barcelona với mức phí khoảng chừng 21 triệu bảng, còn sót lại là những cầu thủ trẻ, mà không bổ trợ thêm bất cứ nhân sự nào, dẫn đến lối chơi của Chelsea bị tóm gọn bài, tác dụng mùa giải đó, Chelsea trắng tay trong lúc José Mourinho đành bất lực và phải rời khỏi cương vị HLV. Nhận thấy cần sự đổi mới, ngay ngày hè 2016, Chelsea đã ký liền hợp đồng với ngôi sao 5 cánh mới nổi của bóng đá Bỉ, Michy Batshuayi với mức giá 33,2 triệu bảng Anh, thông qua đó trở thành bản hợp đồng đắt giá thứ hai trong lịch sử CLB khi ấy, chỉ sau Fernando Torres. Đồng thời khi phân biệt Nemanja Matic đã đánh mất phong độ của một tiền vệ đánh chặn, BLĐ của Chelsea đã thuyết phục được tiền vệ N’Golo Kanté, cầu thủ đã góp công lớn giúp Leicester lập kỳ tích vô địch Giải ngoại hạng mùa giải trước gia nhập đội bóng thành Luân Đôn khi trả cho “bầy cáo” 30 triệu bảng để lấy đi cầu thủ đánh chặn hay nhất của họ. Ngoài ra ông chủ người Nga này cũng đã mời gọi lại một người cũ, hậu vệ David Luiz từ Paris SG với số tiền phá vỡ hợp đồng là 30 triệu bảng đồng thời chiêu mộ 1 hậu vệ cánh người Tây Ban Nha, Marcos Alonso khi trả cho Fiorentina một khoản tiền lên đến 23 triệu bảng. Trong khi David Luiz và Marcos Alonso đóng vai trò thiết yếu trong sơ đồ 3-5-2 của tân giảng dạy viên Antonio Conte thì bản hợp đồng đắt giá Michy Batshuayi lại phải ngồi dự bị đã cho thấy chiến lược chuyển nhượng cho hàng tiền đạo của The Blues vẫn đang có vấn đề.
Những thương vụ làm ăn mua đắt giá nhất
# | Tên | Từ | Mức phí | Giai đoạn |
1 | £107,000,000 | 2023 | ||
2 | £88,500,000 | |||
3 | £71,000,000 | 2018 | ||
4 | £58,000,000 | 2017 | ||
5 | £50,000,000 | 2020 | ||
6 | £50,000,000 | 2011 | ||
7 | £33,200,000 | 2016 | ||
8 | £32,000,000 | 2016 | ||
9 | £32,000,000 | 2014 | ||
10 | £32,000,000 | 2012 |
Những thương vụ bán đắt giá nhất
# | Tên | Đến | Mức phí | Giai đoạn |
1 | £190,000,000 | 2016 | ||
2 | £50,000,000 | 2014 | ||
3 | £37,100,000 | 2014 | ||
4 | £28,000,000 | 2014 | ||
5 | £26,000,000 | 2007 | ||
6 | £25,000,000 | 2016 | ||
7 | £22,000,000 | 2015 | ||
8 | £16,700,000 | 2014 | ||
9 | £13,200,000 | 2011 | ||
10 | £12,000,000 | 2013 |
Liverpool vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
Những mùa giải đầu tiên
Câu lạc bộ bóng đá Liverpool được xây dựng sau một cuộc tranh cãi trong nội bộ ủy ban câu lạc bộ Everton. Everton thuê sân Anfield trong 8 năm khởi nguồn từ năm 1884. Tới năm 1891, John Houlding, quản trị Everton đồng thời là người thay mặt đứng tên hợp đồng thuê sân Anfield, mua lại và làm chủ sân này. Sau đó, vì có sự không tương đồng với Houlding nên những thành viên còn sót lại của Everton đành di chuyển đến một sân vận động khác là Goodison Park, nằm tại vị trí hướng phía bắc khu vui chơi giải trí công viên Stanley. Chỉ còn lại ba cầu thủ và một sân bóng trống không, John Houlding quyết định hành động tự xây dựng cho mình một đội nhóm bóng vào trong ngày 15 tháng 3 năm 1892.[3] và được công nhận chính thức ba tháng tiếp sau đó khi Hiệp hội bóng đá khước từ công nhận câu lạc bộ là Everton. Đội bóng đã giành được Giải Lancashire League trong mùa giải ra mắt của mình và gia nhập Giải hạng hai Football League vào đầu mùa giải 1893-94. Sau khi kết thúc tại vị trí đầu tiên, câu lạc bộ đã được thăng lên hạng Nhất và giành chiến thắng vào năm 1901 và một lần tiếp nữa vào năm 1906.
Câu lạc bộ Liverpool được thành lập và chơi tại sân Anfield đang bỏ trống. Tên bắt đầu là Everton F.C. and Athletic Grounds, Ltd (gọi tắt là Everton Athletic), nhưng tiếp sau này được đổi thành Liverpool Football Club vào tháng 3 năm 1892 do Liên đoàn bóng đá Anh từ chối công nhận tên gọi Everton và được công nhận chính thức ba tháng sau đó.[4]
Liverpool đã lọt vào chung kết FA Cup tiên phong vào năm 1914, thua 1-0 trước Burnley. Câu lạc bộ vô địch Giải Hạng nhất hai năm liên tục vào từng mùa 1921-22 và 1922-23, nhưng tiếp sau đó không vô địch danh hiệu nào cho tới 1946-47 khi họ vô địch giải vương quốc lần thứ năm dưới quyền của cựu trung vệ West Ham Utd, George Kay.[5] Câu lạc bộ vào đến trận chung kết Cúp FA 1950 nhưng thua Arsenal.[6] Liverpool bị xuống hạng Nhì vào mùa giải 1953-54.[7] Trong giai đoạn này họ đã phải chịu một trận thua 2-1 ở Cúp FA trước đội bóng ít tên tuổi Worcester City, mùa 1958-59 thì Bill Shankly được chỉ định làm HLV trưởng.
Dưới thời Bill Shankly và Bob Paisley
Không lâu sau kết quả mất mặt này, Bill Shankly được bổ nhiệm làm huấn luyện viên, lúc bấy giờ Liverpool đang suy yếu, với trang thiết bị rèn luyện cũ nát, đội ngũ ban huấn luyện kém cỏi. Ông đã sa thải 24 cầu thủ và biến hóa một phòng ở Anfield, ban đầu được sử dụng để khởi động thành một phòng gọi là Boot Room, nơi những cầu thủ cùng huấn luyện viên hoàn toàn có thể bàn bạc giải pháp và uống trà. Tại đây, Shankly cùng những thành viên bắt đầu của Boot Room, gồm Joe Fagan, Reuben Bennett và Bob Paisley, bắt đầu cải tổ lại đội bóng.[8]
Lên lại Giải Hạng nhất vào mùa giải 1961-62, và vô địch lần tiên phong sau 17 năm vào mùa 1963-64. Mùa 1965-66, họ vô địch Giải Hạng nhất rồi đoạt Cúp FA đầu tiên, nhưng sau đó thua trước Borussia Dortmund trong trận chung kết Cúp những đội đoạt cúp.[9] Mùa giải 1972-73 đội bóng vô địch Giải Hạng nhất, đoạt Cúp UEFA – đây là cúp châu Âu tiên phong trong lịch sử vẻ vang đội bóng, và tiếp đó 1973-74 đoạt Cúp FA. Sau 15 năm dẫn dắt giành được nhiều thành công, đưa Liverpool trở thành một Một trong những câu lạc bộ số 1 châu Âu, tháng 7 năm 1974, Shankly công bố nghỉ hưu, ông rời đội bóng và trợ lý Bob Paisley lên thay.[10]
Paisley thậm chí còn còn đã có được nhiều thành công hơn Shankly khi giúp đội bóng vô địch Giải Hạng nhất và Cúp UEFA ngay trong đợt giải 1975-76 – mùa thứ hai ông làm huấn luyện và đào tạo viên. Mùa tiếp đó, họ bảo vệ thành công danh sự nghiệp hiệu vô địch Giải Hạng nhất, đoạt được cúp vô địch châu Âu (Cúp C1) đầu tiên trong lịch sử vẻ vang đội bóng, nhưng để thua trong trận chung kết Cúp FA, bỏ qua thời cơ đoạt cú ăn ba. Mùa 1977-78, Liverpool bảo vệ thành công xuất sắc ngôi vô địch Cúp C1 và vô địch Giải Hạng nhất lần tiếp nữa với số điểm 68, chỉ để thủng lưới 16 bàn trong 42 trận.[11]
Trong 9 mùa bóng Paisley dẫn dắt đội bóng, Liverpool đã vô địch 21 danh hiệu, bao gồm: 3 Cúp C1, 1 Cúp UEFA, 6 chức vô địch Giải Hạng nhất, 3 Cúp Liên đoàn cùng với rất nhiều thương hiệu khác. Danh hiệu duy nhất ông không giành được là Cúp FA.[12] Kỉ nguyên của Paisley là kỉ nguyên của những ngôi sao 5 cánh lớn: Graeme Souness, Ian Rush, Alan Hansen và Kenny Dalglish.
Paisley rời băng ghế giảng dạy vào năm 1983 và (cũng giống như Shankly đã làm) để lại chiếc ghế đào tạo và giảng dạy cho thành viên của Boot Room, trợ lý huấn luyện viên Joe Fagan.[13] Liverpool dành được ngay 3 thương hiệu trong mùa giải 1983-84 – mùa tiên phong Fagan tiếp quản, gồm: Giải Hạng nhất, Cúp Liên Đoàn và Cúp C1, trở thành đội bóng Anh tiên phong giành được cú ăn ba trong một mùa giải.[14] Liverpool chơi trận chung kết Cúp C1 lần tiếp nữa vào trong ngày 29 tháng 5 năm 1985, trận gặp Juventus trên sân hoạt động Heysel, thành phố Brussels, nước Bỉ.
Những thảm họa
Trước khi trận chung kết bắt đầu, nhiều cổ động viên Liverpool chủ động tiến công cổ động viên Juventus bằng chai lọ rồi tràn qua phần khán đài của họ. Kết quả nhiều cổ động viên Juventus bị dồn vào một bức tường khiến bức tường này đổ sập, giết chết 39 người trong những họ, hầu hết là cổ động viên người Ý. Trận đấu tiếp sau này vẫn ra mắt và Liverpool thua 1-0 bởi bàn thắng phạt đền của Michel Platini ở phút 57. Các đội bóng Anh tiếp sau đó đã bị cấm thi đấu ở các giải châu Âu trong 5 năm, Liverpool nhận mức phạt 10 năm, sau này được giảm xuống còn 6 năm. 14 cổ động viên Liverpool phải nhận mức án 3 năm tù cho tội ngộ sát.[15] Thảm họa này được gọi là “Giờ đen tối nhất trong lịch sử vẻ vang các cuộc đấu UEFA”.[16]
Fagan từ chức ngay sau thảm hoạ và Kenny Dalglish được chỉ định trên cương vị huấn luyện và đào tạo viên kiêm cầu thủ.[17] Trong thời gian ông nắm quyền, đội bóng 3 lần vô địch Giải Hạng nhất và đoạt 2 Cúp FA, bao gồm một cú ăn hai vào mùa giải 1985-86.
Chỉ 4 năm tiếp theo thảm họa Heysel, năm 1989, thêm một thảm họa khác liên quan đến cổ động viên của Liverpool xảy ra. Trong trận bán kết Cúp FA gặp Nottingham Forest tại sân Hillsborough ngày 15 tháng bốn năm 1989, sân quá tải khiến nhiều người bị dồn ép vào hàng rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ, giẫm đạp lên nhau trong vô vọng.[18] 94 cổ động viên đã thiệt mạng vào trong ngày hôm đó. Bốn ngày sau, số dân cư thiệt mạng là 95 khi một cậu bé 14 tuổi qua đời. Bốn năm sau, tới lượt cổ động viên thứ 96 qua đời trên giường bệnh sau thuở nào gian dài sống thực vật.[19] Sau thảm họa này, chính quyền sở tại đã phải kiểm tra mức độ an toàn của những sân bóng. Theo như Báo cáo Taylor (Taylor Report), nguyên do chính của thảm hoạ là vì sự quá tải dẫn tới việc công an không hề trấn áp được tình hình.[20]
Một luật lệ đã được phát hành và mọi sân hoạt động ở giải đấu vô địch nước Anh phải dỡ bỏ hàng rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ, các khán đài phải được phủ kín bởi ghế ngồi. Mùa giải 1988-89 cũng chứng kiến Liverpool bị mất chức vô địch Hạng nhất một cách giật mình nhất Tính từ lúc khi giải đấu ra đời, khi câu lạc bộ mất danh hiệu bởi hiệu số bàn thắng-thua vào đúng phút cuối của mùa giải, trong trận thua trước chính nhà vô địch mùa đây là Arsenal.[21]
Dưới thời Souness và Houllier
Ngày 22 tháng 2 năm 1991, Dalglish bất ngờ tuyên bố từ chức, người sửa chữa thay thế ông là Graeme Souness.[22] Ngoại trừ Cúp FA vào năm 1992, Souness không giành thêm được thành công nào và bị thay thế bởi cựu thành viên Boot Room Roy Evans. Evans đạt được một chút ít thành công: chức vô địch Cúp Liên đoàn năm 1995 là thương hiệu duy nhất của ông. Điểm sáng nữa là thắng lợi 4-3 trước Newcastle United ở Anfield ngày 3 tháng bốn năm 1996 được nhìn nhận là trận đấu hay nhất của Giải Ngoại hạng trong 10 năm.
Trong quy trình tiến độ này, Liverpool sử dụng nhiều cầu thủ trẻ do họ tự đào tạo và thiết kế xây dựng một lối chơi tiến công đẹp mắt. Đặc biệt là bộ ba Spice Boys gồm: Steve McManaman, Jamie Redknapp và Robbie Fowler, sau này được bổ sung thêm những nhân tố tiến công như Patrik Berger, Stan Collymore và nhất là tiền đạo trẻ tuổi Michael Owen.
Trong khi họ thực thi một số ít thử thách danh hiệu dưới thời Evans, kết thúc tại đoạn thứ ba vào năm 1996 và 1998 là vấn đề rất tốt họ hoàn toàn có thể thực hiện, Gérard Houllier được chỉ định là đồng đào tạo và giảng dạy viên cùng Roy Evans vào mùa giải 1998-99, nhưng được toàn quyền dẫn dắt sau lúc Evans từ chức vào tháng 11 năm 1998.[23] Trong năm 2001, Liverpool giành được giành được cú ăn ba gồm: Cúp FA, Cúp Liên đoàn và Cúp UEFA; cùng 2 danh hiệu khác là Siêu cúp châu Âu và Siêu cúp Anh.[24] Houllier phải triển khai một ca phẫu thuật tim trong đợt giải 2001-02 và Liverpool về đích vị trí thứ nhì tại Giải Ngoại hạng, sau Arsenal.[25] Mùa 2002-03, họ giành được thêm Cúp Liên đoàn nhưng tới mùa tiếp sau đó thì không đoạt bất kể danh hiệu nào, và lối chơi trong giai đoạn này cũng không thuyết phục.
Thời hoàng kim Benítez và sau đó
Khi Benítez lên dẫn dắt đội bóng, hàng loạt cầu thủ Tây Ban Nha đã đến Anfield chơi bóng, có thể kể tới những tên tuổi như Xabi Alonso, Luis García. Tại Giải ngoại hạng Anh, Liverpool thi đấu không thật tốt, họ xếp thứ 5 chung cuộc trên bảng xếp hạng vào thời điểm cuối mùa. Ở cúp FA, câu lạc bộ cũng lọt đến trận chung kết gặp Chelsea, nhưng thất bại 2-3 sau 120 phút thi đấu. Câu lạc bộ cũng sớm bị loại khỏi Cúp liên đoàn sau khi giật mình để thua Burnley với tỉ số 0-1. Cúp châu Âu là thương hiệu duy nhất mà người ta giành được trong mùa giải. Ở vòng bảng Lữ đoàn Đỏ xếp thứ 2 sau câu lạc bộ AS Monaco. Sau đó Liverpool lần lượt vượt qua các đối thủ cạnh tranh Bayer Leverkusen, Juventus, và trả được món nợ tại trận chung kết Cúp FA khi loại Chelsea để tiến vào trận chung kết gặp AC Milan. Trận chung kết ra mắt trên đất Thổ Nhĩ Kỳ. Đây sẽ là đêm Istanbul huyền thoại, khi chỉ trong hiệp 1, Liverpool đã để lọt lưới 3 bàn, và trong hiệp 2, Đội bóng đến từ thành phố cảng đã gỡ hòa 3-3 với bàn thắng của Steven Gerrard, Vladimír Šmicer và Xabi Alonso, thông qua đó cầm chân Milan vào loạt sút luân lưu. Trên chấm luân lưu, Liverpool đã giành chiến thắng với tỉ số 3-2, thông qua đó lần thứ 5 lên ngôi vô địch châu Âu.[26]
Mùa tiếp theo, Liverpool đứng vị trí thứ 3 với 82 điểm, số điểm trên tốt nhất mà họ giành được Tính từ lúc năm 1988. Họ vô địch Cúp FA bằng việc đánh bại West Ham United 3-1 trên chấm luân lưu sau khi hiệp chính kết thúc với tỉ số 3-3.[27]
Benitez đã thực thi những cuộc cải cách khi giảm dần tác nhân Đông Âu trong đội hình của Liverpool bằng việc vô hiệu những cầu thủ như Milan Baros, Dudek, Vladimír Šmicer… thay vào đây ông chiêu mộ nhiều cầu thủ gốc La-tinh như Luis Garcia, Fabio Aurelio, Javier Mascherano, Xabi Alonso…. và đặc biệt quan trọng là tiền đạo Fernando Torres; thiết kế xây dựng lối chơi tiến công dựa trên cặp đôi Gerrard-Torres. Sự đổi khác này đã được báo giới đặt tên là Rafalution, một cách chơi chữ của từ revolution, nghĩa là cuộc cách mạng của Rafa.
Mùa giải 2006-07, đội bóng tìm kiếm những nguồn góp vốn đầu tư mới và hai doanh nhân người Mĩ là George Gillet và Tom Hicks đã tới thâu tóm về đội bóng với mức giá 218,9 triệu bảng.[28] Năm đó, họ cũng vào tới trận chung kết Cúp C1, nhưng thua 2-1 trước đội bóng mà người ta đã đánh bại trong trận chung kết Cúp C1 2005 AC Milan.[29] Kết thúc mùa giải 2008-09, Liverpool đứng tại vị trí thứ nhì sau Manchester United, giành được 86 điểm – số điểm trên tốt nhất mà người ta từng giành được Tính từ lúc khi giải đấu mang tên Giải Ngoại hạng.[30]
Giai đoạn này, Liverpool tuy không giành được nhiều thương hiệu nhưng họ đã chơi tốt tại đấu trường châu Âu. Họ có những trận đấu đẹp, kịch tích và những chiến thắng thuyết phục trước những đội bóng lớn của châu Âu và nước Anh, làm mưa làm gió trong quá trình này. Báo chí thường nhắc tới họ với tên gọi “Vua đấu cúp”.
Mùa giải 2009-10, câu lạc bộ không đoạt được bất kể danh hiệu nào và thất bại trong việc tìm một suất dự cúp C1 với vị trí thứ 7 Giải Ngoại hạng. Đây là nguyên do dẫn đến sự ra đi của Rafael Benitez vào sau mùa giải này.[31] Roy Hodgson lên dẫn dắt, nhưng giải pháp của ông không tương thích khiến đội bóng liên tục nằm tại vị trí nửa dưới bảng xếp hạng và những chủ nợ của câu lạc bộ đã yêu cầu Tòa án tối cao cho phép bán câu lạc bộ, vượt mặt mong ước của Hicks và Gillett. Tháng 10 năm 2010 cũng ghi lại các sự kiện: chia tay với nhà hỗ trợ vốn Carlsberg sau không ít năm hợp tác và John W. Henry chủ chiếm hữu của Boston Red Sox và của Fenway Sports Group thâu tóm về câu lạc bộ.[32]
Ngày 8 tháng một năm 2011, Roy Hodgson rời Liverpool bằng “thoả thuận đôi bên”, người sửa chữa thay thế ông là Kenny Dalglish, đúng như nguyện vọng của nhiều cổ động viên[33]. Dalglish giúp Liverpool chấm dứt chuỗi 6 năm không thương hiệu với việc vô địch Cúp Liên đoàn 2012[34]. Tuy nhiên, sau lúc đội bóng kết thúc Giải Ngoại hạng 2011-12 ở vị trí thứ 8, tệ nhất trong 18 năm, Dalglish bị sa thải vào tháng 5 năm 2012.[35] Kết thúc cuộc tìm kiếm vị huấn luyện viên trưởng sửa chữa thay thế Kenny Dalglish, Brendan Rodgers được lựa chọn. Ông rất thành công xuất sắc với Swansea City mùa giải trước đó và hứa hẹn sẽ đưa lối chơi Tiqui-Taca dựa vào khả năng cầm giữ bóng tốt đến Liverpool. Mùa giải đầu tiên ông dẫn dắt, Liverpool kết thúc ở đoạn thứ 7 giải Ngoại hạng vào được vòng 32 đội ở đấu trường Europa League. Mùa tiếp đó, Liverpool giành được bước tiến vượt bậc về thứ hạng khi họ cán đích chỉ ở sau nhà vô địch Manchester City và ghi được 101 bàn thắng, rất tốt Tính từ lúc mùa giải 1895-1896 với 106 bàn, đồng thời họ có được suất dự cúp C1 lần đầu tiên sau không ít năm chờ đợi.[36]
Mùa giải 2014-15 là mùa giải thứ ba của Brendan Rodgers, Liverpool tranh tài không thật sự tốt khi bị loại ở vòng bảng UEFA Champions League khi kết thúc với vị trí thứ 3 và xuống chơi ở Europa League, câu lạc bộ cũng không mấy thành công. Còn ở giải ngoại hạng, Liverpool đứng ở đoạn thứ 6, đây là cung thời gian trắng tay thứ 3 liên tiếp. Niềm an ủi duy nhất với Lữ đoàn đỏ là chiếc vé dự Europa League thay cho nỗi buồn về thành tích tranh tài hay sự ra đi của lịch sử một thời đội trưởng Steven Gerrard.[37]
Mùa giải 2015-16, mặc dù đã đổ vào thị trường chuyển nhượng ủy quyền hàng chục triệu bảng mang lại những tân binh chất lượng như Roberto Firmino, Christian Benteke, nhưng hiệu quả vẫn tiếp nối đuôi nhau sự tuyệt vọng của mùa trước với những thành tích bạc nhược, sau 10 trận gần nhất chỉ thắng được 1, Brendan Rodgers đã biết thành sa thải ngay sau lúc kết thúc trận đấu derby Merseyside ở vòng 8 với Everton. Thay thế ông là cựu giảng dạy và đào tạo viên của Dortmund, ông Jürgen Klopp.[38]
2015-nay: “Kỷ nguyên” Jürgen Klopp
Ngày 9 tháng 10 năm 2015, trang chủ của Liverpool thông tin đội bóng đã chỉ định chiến lược gia người Đức Jürgen Klopp làm huấn luyện viên trưởng sau lúc sa thải HLV Brendan Rodgers trong 3 năm[39]. Liverpool đã có những dấu hiệu khởi sắc dưới thời tân kế hoạch gia người Đức. Họ đã tiến vào chung kết League Cup gặp Manchester City, đội hòa 1-1 cả trận nhưng thua 3-1 sau loạt phạt đền[40]
Ngày 15 tháng bốn năm 2016, Liverpool tiếp đón Dortmund trong khuôn khổ lượt về tứ kết Europa League với lợi thế trận hòa 1-1 ở lượt đi. Trận đấu đầy cảm hứng làm gợi lại đêm Istanbul huyền diệu khi Liverpool đã lội ngược dòng thành công xuất sắc với tỉ số 4-3 sau lúc bị dẫn trước 2-0 từ rất sớm, The Kop đã chơi một thứ bóng đá đầy cảm xúc, một trận đấu xứng đáng được ghi vào lịch sử CLB[41]. Tại bán kết Liverpool gặp câu lạc bộ tới từ Tây Ban Nha, Villarreal. Tại trận lượt đi mặc dầu thi đấu tốt nhưng The Kop phải đón nhận bàn thua ở những phút chót và đành gật đầu thất bại 0-1. Tuy nhiên ở trận lượt về, Liverpool của Klopp đã tranh tài xuất sắc để lật ngược tình thế với thắng lợi cách biệt 3-0 để tiến vào trận chung kết trước khi để thua một câu lạc bộ khác của Tây Ban Nha là Sevilla với tỉ số 1-3[42]. Dù thất bại ở cả 2 trận chung kết, nhưng Jürgen Klopp đã chiếm nhiều tình cảm từ phía người hâm mộ bằng một lối chơi kỷ luật và đầy máu lửa.
Vào tháng 7 năm 2016, Liverpool thông tin đã gia hạn với giảng dạy viên Jürgen Klopp thêm 6 năm, hợp đồng sẽ mãn hạn vào hè năm 2022. Trước đó, CLB đã chiếm hữu bản hợp đồng trị giá 30 triệu bảng từ Southampton, tiền đạo Sadio Mané[43]. Mùa giải toàn vẹn tiên phong của ông kết thúc khi đưa đội đứng thứ 4[44]
Tháng 6 năm 2017, câu lạc bộ đã chiêu mộ thành công cầu thủ người Ai Cập Mohamed Salah từ A.S. Roma với giá chuyển nhượng ủy quyền ủy quyền 42 triệu Euro[45], cùng Virgil van Dijk với mức phí chuyển nhượng kỷ lục 75 triệu bảng vào mùa đông[46], và bán Philippe Coutinho cho FC Barcelona với mức giá 160 triệu Euro[47]. Mùa giải 2017-18, nhờ việc xuất sắc của cục ba Salah – Firmino – Mané, Liverpool đứng thứ 4 chung cuộc ở giải ngoại hạng. Còn ở đấu trường Champions League, đội bóng đã lần lượt vượt mặt Porto, Man City và A.S. Roma để vào đến trận chung kết gặp Real Madrid. Tuy nhiên, The Kop để thua với tỉ số 1-3[48].
Đến mùa giải 2018-2019, Liverpool xuất sắc sau khi bỏ xa Manchester City tận 7 điểm để nắm chắc ngôi đầu nhưng tiếp sau đây là hàng loạt cú sẩy chân trong tháng 3 khiến họ rơi xuống vị trí thứ 2, chung cuộc Liverpool về nhì với 97 điểm, số điểm tốt nhất trong lịch sử dân tộc của đội bóng này nhưng vẫn thấp hơn đội vô địch là Manchester City với 98 điểm[49]. Tại Champions League, đội bóng lần lượt vượt qua Bayern Munich, Porto để vào bán kết gặp Barcelona. Trận gặp Barcelona tại lượt về bán kết Champions League là một số những trận đấu ngược dòng tầm cỡ của lịch sử dân tộc Champions League. Sau khi để thua lượt đi tại Camp Nou với tỉ số 3-0[50], đội bóng đã ngược dòng ngoạn mục tại trận lượt về tại Anfield với tỉ số 4-0 bởi cú đúp của Origi và Georginio Wijnaldum, qua đó kết thúc trận đấu với tỷ số 4-3 để vào đến trận chung kết gặp đối thủ cùng vương quốc là Tottenham[51]. Ở trận chung kết ra mắt tại thành phố Madrid, với 2 pha lập công của Salah và Origi đã giúp Liverpool vượt mặt đối thủ, thông qua đó mang lại thương hiệu đầu tiên dưới thời Jürgen Klopp và là thương hiệu thứ 6 cho đội bóng tại đấu trường này.[52] Sau đó, đội còn giành được thêm 2 thương hiệu quốc tế là UEFA Super Cup trước Chelsea và FIFA Club World Cup trước đại diện thay mặt tới từ Brazil Flamengo để kết thúc một năm 2019 đầy rực rỡ[53][54].
The Kop bước sang năm 2020 với vị trí đầu bảng Giải bóng đá Ngoại hạng Anh,dẫn trước đội xếp thứ 2 là Manchester City tới 16 điểm. Tuy nhiên đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động sinh hoạt giải trí thể thao trên thế giới, Ngoại hạng Anh cũng đồng thời bị hoãn. Liverpool đang đứng vị trí số 1 bảng xếp hạng Ngoại Hạng Anh với 82 điểm, bỏ xa đội thứ 2 Manchester City với 57 điểm. Ban tổ chức Ngoại hạng Anh đã lên kế hoạch trao cúp vô địch sớm cho Liverpool nhưng những đội bóng khác đã lên tiếng phản đối và nhu yếu hủy tác dụng mùa giải, tiêu biểu vượt trội là West Ham United và Tottenham.
Rạng sáng ngày 26 tháng 6 năm 2020, ở vòng 31, Chelsea vượt mặt Man City 2-1. Cùng với việc Liverpool thắng Crystal Palace khiến khoảng chừng cách giữa Man City và Liverpool được nới rộng lên thành 23 điểm.[55] Vì Ngoại Hạng Anh chỉ còn 7 vòng đấu nữa là kết thúc nên thầy trò HLV Guardiola đã chính thức hết cơ hội bám đuổi Liverpool. Ngôi vương đã thuộc về Juergen Klopp và những học trò một cách đầy xứng đáng. Liverpool lập kỷ lục vô địch sớm 7 vòng đấu.[56]
Rạng sáng ngày 5 tháng 10 năm 2020, ở vòng 5, Liverpool đã nhận cú sốc lớn khi để thua 2-7 trước Aston Villa[57]. Cùng với chấn thương của những trụ cột, Liverpool tranh tài sa sút và chỉ kết thúc mùa giải tại đoạn thứ 3.[58]
Sang mùa giải 2021-22, Liverpool đã gấp đôi vượt mặt Chelsea ở chung kết Carabao Cup[59], và FA Cup đều ở loạt luân lưu[60]. Tuy nhiên, đội về nhì tại giải quốc nội với 92 điểm, đứng sau Manchester City với một điểm ít hơn[61], và nhận thất bại 0-1 tại chung kết Champions League trước Real Madrid[62].
Lần gần nhất arsenal vô địch ngoại hạng anh
Arsenal giành tổng cộng 13 chức vô địch quốc gia, đứng thứ ba chỉ với sau Manchester United (với 20 chức vô địch) và Liverpool (18 chức vô địch).[162] Họ là đội bóng giành được nhiều chiếc Cúp FA nhất trong lịch sử với 13 chiếc trong phòng truyền thống.[163][164] Arsenal đã có thời điểm từng đoạt được ba cú đúp danh hiệu vô địch vương quốc và FA Cup (vào những năm 1971, 1998, 2002), thành tích này ngang bằng với Manchester United (vào những năm 1994, 1996, 1999),[29][165] và họ cũng là đội bóng tiên phong giành được cú đúp Cúp FA và Cúp Liên đoàn Anh (vào năm 1993).[166] Arsenal cũng là câu lạc bộ Luân Đôn tiên phong lọt đến một trận chung kết Champions League, vào năm 2006, lúc đó họ thua 1–2 trước Barcelona.[167]
Arsenal là một Một trong những câu lạc bộ có một vị trí rất tốt ở giải vô địch vương quốc trong lịch sử, với việc chỉ 7 lần kết thúc mùa giải ở vị trí từ 15 trở xuống. Họ là đội bóng có thứ hạng trung bình sau lúc kết thúc mùa giải cao nhất thế kỷ XX, với thứ hạng trung bình là 8,5.[168] Ngoài ra, họ là một sáu câu lạc bộ đoạt Cúp FA gấp đôi liên tiếp, vào các năm 2002 và 2003; 2014 và 2015.[169] Arsenal cũng giữ kỷ lục về số trận bất bại dài nhất trong khuôn khổ Giải bóng đá Ngoại hạng Anh với 49 trận, và là đội bóng duy nhất cho tới nay có một mùa giải bất bại ở giải đấu này (mùa giải 2003-04).[170]
David O’Leary hiện đang nắm giữ kỷ lục số trận ra sân nhiều nhất cho Arsenal, với 722 trận đấu trong trong thời điểm 1975-1993. Người đồng đội, trung vệ và cũng là cựu đội trưởng của Arsenal, Tony Adams đứng thứ hai, với 669 lần ra sân. Thủ môn ra sân nhiều nhất cho Arsenal là David Seaman, với 564 lần.[171]
Thierry Henry là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất cho câu lạc bộ, với 228 bàn thắng từ năm 1999 đến 2007 và đầu xuân 2012,[172] vượt mặt kỷ lục của Ian Wright với 185 bàn thắng lập được vào tháng 10 năm 2005.[173] Kỷ lục của Wright tại vị từ tháng 9 năm 1997 khi cầu thủ này vượt mặt mốc 178 bàn của cầu thủ chạy cánh Cliff Bastin lập được vào năm 1939.[174] Henry cũng là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất tại giải vô địch vương quốc cho câu lạc bộ với 175 bàn,[172] một kỷ lục mà Bastin đã lập và đứng vững tới tháng 2 năm 2006.[175]
Kỷ lục về số cổ động viên dự một trận đấu trên sân nhà đất của Arsenal là 73.707 khán giả, trong trận cúp C1 châu Âu với RC Lens vào ngày 25 tháng 11 năm 1998, trên sân vận động Wembley, nơi mà trước đây đội bóng chơi các trận đấu tại cúp châu Âu vì những vướng mắc về sân vận động Highbury. Kỷ lục về số cổ động viên dự một trận đấu tại Highbury là 73.295 người, trong trận hòa 0–0 với Sunderland ngày 9 tháng 3 năm 1935.[171] Còn so với kỷ lục về số cổ động viên trên sân Emirates thì con số là 60.161 người, trong trận hòa 2–2 với Manchester United vào trong ngày 3 tháng 11 năm 2007.[176]
Arsenal cũng đã tạo ra sự kỷ lục của bóng đá Anh, khi trở thành đội bóng có không ít mùa hạng nhất tại giải vô địch vương quốc trong lịch sử vẻ vang (88 mùa giải tính đến 2014–15) và có chuỗi trận bất bại dài nhất tại giải vô địch quốc gia (với 49 trận từ thời điểm ngày 7 tháng 5 năm 2003 đến 24 tháng 10 năm 2004).[43] Chuỗi trận bất bại này gồm có cả 38 trận đấu của mùa giải 2003–04, giúp Arsenal trở thành đội bóng thứ hai sau Preston North End (cách mùa giải đó 115 năm) có một mùa giải bất bại.[41]
Arsenal cũng đã lập kỷ lục giữ sạch lưới tại cúp C1 châu Âu 2005–06 với 10 trận không để đối phương chọc thủng lưới. Họ đã có tổng cộng 995 phút không để thủng lưới, và kết thúc bởi bàn thắng của cầu thủ Barcelona, Samuel Eto’o ở phút thứ 76 trong trận chung kết.[45]
Mu vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
Huy hiệu của câu lạc bộ được thiết kế dựa trên huy hiệu của Hội đồng Thành phố Manchester, mặc dầu huy hiệu ngày nay chỉ giữ lại hình ảnh chiếc thuyền khơi căng gió.[92] Hình ảnh con quỷ bắt nguồn từ biệt danh “The Red Devils”; hình ảnh này Open trong những tờ chương trình của câu lạc bộ và trên khăn quàng cổ vào thập niên 1960, và được đem vào huy hiệu câu lạc bộ năm 1970, mặc dù huy hiệu không được in lên ngực áo đấu cầu thủ cho tới năm 1971 (trừ khi đội bóng chơi trong trận chung kết khi đấu cúp).[92]
Một tấm hình của đội Newton Heath năm 1892 được cho là chụp những cầu thủ mặc áo red color và white color với quần knickerbocker greed color hải quân.[93] Từ 1894-1896, các cầu thủ mặc áo greed color lá cây vàng.[93] và được thay thế vào năm 1896 bằng áo sơ mi trắng và quần short màu xanh da trời hải quân.[93]
Sau khi biến hóa tên vào năm 1902, màu sắc của câu lạc bộ được biến hóa thành áo đỏ, quần trắng và tất màu đen; đây cũng là màu phục trang sân nhà chuẩn của Manchester United.[93] Áo đấu ít thay đổi cho tới năm 1922 khi câu lạc bộ vận dụng áo sơ mi trắng với chữ “V” red color đậm quanh cổ, tựa như như chiếc áo mặc trong trận chung kết Cúp FA 1909. Chiếc áo được mặc định làm áo đấu sân nhà cho tới năm 1927.[93] Có một quá trình vào năm 1934, chiếc áo đấu phụ màu anh đào sọc ngang white color trở thành áo đấu sân nhà, nhưng mùa giải sau đó chiếc áo màu đỏ được sử dụng lại.[93] Tất màu đen được thay đổi thành màu trắng từ thời điểm năm 1959 đến năm 1965, đổi thành màu đỏ cho đến năm 1971 khi câu lạc bộ trả lại màu tất đen. Quần đen và/hoặc tất trắng đôi lúc cũng khá được sử dụng với áo đỏ, hầu hết là trong những trận sân khách để tranh trùng màu với đội chủ nhà. Áo sân nhà lúc bấy giờ là một chiếc áo được phân thành hai nửa đỏ bên đậm bên nhạt, được phân làn bằng một dải họa tiết sáu cạnh với ba sọc Adidas màu trắng chạy dọc thân bên áo.[94]
Manchester United thi đấu sân khách thường mặc áo trắng, quần đen và tất trắng, nhưng đã có một số ít trường hợp ngoại lệ. Áo đấu bao gồm một dải màu đen với trang trí greed color vàng từ thời điểm năm 1993 đến năm 1995, những chiếc áo sơ mi màu xanh da trời hải quân với mối xoắn ngang màu bạc trong đợt giải 1999-2000,[95] và những bộ áo đấu màu giải 2011-12 trở đi, trong số đó có một áo đấu có nền xanh hoàng gia và sọc được tạo ra từ nhưng dải màu đen và xanh dương, với quần short màu đen và tất màu xanh.[96] Áo đấu màu xám mặc trong đợt giải 1995-1996 bị bỏ chỉ sau năm trận đấu vì cầu thủ chứng minh và khẳng định rất khó khăn vất vả khi tìm đồng đội phối hợp.[97] Năm 2001, để kỷ niệm 100 năm đổi tên, Manchester United phát hành áo đấu lộn trái phải như nhau màu trắng/vàng, mặc dù trong thực tiễn những chiếc áo khi mang ra tranh tài không lộn trái phải như nhau được.[98]
Bộ áo đấu thứ ba của câu lạc bộ thường là trọn vẹn xanh, đây là trường hợp gần đây nhất là trong mùa giải 2014-15.[99] Trường hợp ngoại lệ bao gồm áo hai nửa màu xanh lá cây vàng từ thời điểm năm 1992 đến năm 1994, một chiếc áo sọc xanh-trắng mặc trong 1994-1995 và 1995-1996 và một lần trong mùa 1996-97, một bộ áo đấu toàn màu đen mặc trong mùa giải 1998-1999, và áo trắng với mối xoắn ngang màu đen và đỏ mặc từ thời điểm năm 2003 tới 2005.[100] Từ năm 2006-07 tới 2013-14, áo đấu thứ ba thường giống áo mùa giải trước, những trường hợp ngoại lệ là mùa giải 2008-09[101] và mùa giải 2014-15.
Huy hiệu
Huy hiệu Manchester United (1960-1973)
Huy hiệu Manchester United (1973-1998)
Huy hiệu Manchester United (1998-nay)
Huy hiệu câu lạc bộ Manchester United thay đổi theo dòng thời hạn lịch sử. Huy hiệu của câu lạc bộ nối sát từ biệt danh của câu lạc bộ là “The Red Devils”. Năm 1998, Huy hiệu được phong cách thiết kế lại một lần nữa, loại bỏ cụm từ “Football Club”.
Trang phục áo đấu
1902–20, 1921–22, 1927–34, 1934–60, 1971–2018[EN] |
- Ghi chú
- ^ Kể từ thời điểm năm 1997 cách phối màu này được sử dụng hầu hết trong những trận quốc nội và giao hữu.
- ^ Kể từ thời điểm năm 1997 cách phối màu này được dùng chủ yếu trong những trận châu Âu và quốc tế.
Tottenham vô địch ngoại hạng anh bao nhiêu lần
- In đậm chỉ Cú đúp thương hiệu – Ví dụ như “Vô địch vương quốc và cúp trong nước (Cúp FA hoặc Liên đoàn)”, hoặc “Vô địch quốc gia và một cúp châu Âu (UEFA Champions League hoặc UEFA Europa League)”.
- In đậm nghiêng chỉ Cú ăn ba danh hiệu – Ví dụ như “Vô địch quốc gia, một cúp nội địa (Cúp liên đoàn hoặc Cúp FA) và một cúp châu Âu (UEFA Champions League hoặc UEFA Europa League).
- In nghiêng chỉ cú ăn ba vô địch nội địa – Vô địch quốc gia, Cúp FA và Cúp Liên đoàn.
Football League (1888–1892)[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Vô địch | Á quân | Hạng ba | Vua phá lưới | Bàn thắng |
1888–89 | Preston North End[1] | Aston Villa | Wolverhampton Wanderers | 21 | |
1889–90 | Preston North End (2) | Everton | Blackburn Rovers | 24 | |
1890–91 | Everton | Preston North End | Notts County | 26 | |
1891–92 | Sunderland | Preston North End | Bolton Wanderers | 32 |
Football League First Division (1892–1992)[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Vô địch | Á quân | Hạng ba | Vua phá lưới | Bàn thắng |
1892–93 | Sunderland (2) | Preston North End | Everton | 31 | |
1893–94 | Aston Villa | Sunderland | Derby County | 27 | |
1894–95 | Sunderland (3) | Everton | Aston Villa | 22 | |
1895–96 | Aston Villa (2) | Derby County | Everton | 20 | |
1896–97 | Aston Villa (3) | Sheffield United | Derby County | 22 | |
1897–98 | Sheffield United | Sunderland | Wolverhampton Wanderers | 21 | |
1898–99 | Aston Villa (4) | Liverpool | Burnley | 23 | |
1899–1900 | Aston Villa (5) | Sheffield United | Sunderland | 27 | |
1900–01 | Liverpool | Sunderland | Notts County | 23 | |
1901–02 | Sunderland (4) | Everton | Newcastle United | 18 | |
1902–03 | The Wednesday[8] | Aston Villa | Sunderland | 31 | |
1903–04 | The Wednesday[8] (2) | Manchester City | Everton | 20 | |
1904–05 | Newcastle United | Everton | Manchester City | 22 | |
1905–06 | Liverpool (2) | Preston North End | The Wednesday | 26 | |
1906–07 | Newcastle United (2) | Bristol City | Everton | 30 | |
1907–08 | Manchester United | Aston Villa | Manchester City | 27 | |
1908–09 | Newcastle United (3) | Everton | Sunderland | 38 | |
1909–10 | Aston Villa (6) | Liverpool | Blackburn Rovers | 30 | |
1910–11 | Manchester United (2) | Aston Villa | Sunderland | 25 | |
1911–12 | Blackburn Rovers | Everton | Newcastle United | 25 | |
1912–13 | Sunderland (5) | Aston Villa | The Wednesday | 30 | |
1913–14 | Blackburn Rovers (2) | Aston Villa | Middlesbrough | 32 | |
1914–15 | Everton (2) | Oldham Athletic | Blackburn Rovers | 35 | |
1915/16–1918/19 | |||||
1919–20 | West Bromwich Albion | Burnley | Chelsea | 37 | |
1920–21 | Burnley | Manchester City | Bolton Wanderers | 38 | |
1921–22 | Liverpool (3) | Tottenham Hotspur | Burnley | 31 | |
1922–23 | Liverpool (4) | Sunderland | Huddersfield Town | 30 | |
1923–24 | Huddersfield Town | Cardiff City | Sunderland | 28 | |
1924–25 | Huddersfield Town (2) | West Bromwich Albion | Bolton Wanderers | 31 | |
1925–26 | Huddersfield Town (3) | Arsenal | Sunderland | 43 | |
1926–27 | Newcastle United (4) | Huddersfield Town | Sunderland | 37 | |
1927–28 | Everton (3) | Huddersfield Town | Leicester City | 60 | |
1928–29 | The Wednesday[8] (3) | Leicester City | Aston Villa | 43 | |
1929–30 | Sheffield Wednesday (4) | Derby County | Manchester City | 41 | |
1930–31 | Arsenal | Aston Villa | Sheffield Wednesday | 49 | |
1931–32 | Everton (4) | Arsenal | Sheffield Wednesday | 44 | |
1932–33 | Arsenal (2) | Aston Villa | Sheffield Wednesday | 35 | |
1933–34 | Arsenal (3) | Huddersfield Town | Tottenham Hotspur | 34 | |
1934–35 | Arsenal (4) | Sunderland | Sheffield Wednesday | 42 | |
1935–36 | Sunderland (6) | Derby County | Huddersfield Town | 39 | |
1936–37 | Manchester City | Charlton Athletic | Arsenal | 33 | |
1937–38 | Arsenal (5) | Wolverhampton Wanderers | Preston North End | 28 | |
1938–39 | Everton (5) | Wolverhampton Wanderers | Charlton Athletic | 35 | |
1939–40 | Giải đấu tạm hoãn vào tháng 9 năm 1939 do bùng nổ Chiến tranh quốc tế lần thứ hai | ||||
1940/41–1945/46 | |||||
1946–47 | Liverpool (5) | Manchester United | Wolverhampton Wanderers | 37 | |
1947–48 | Arsenal (6) | Manchester United | Burnley | 33 | |
1948–49 | Portsmouth | Manchester United | Derby County | 25 | |
1949–50 | Portsmouth (2) | Wolverhampton Wanderers | Sunderland | 25 | |
1950–51 | Tottenham Hotspur | Manchester United | Blackpool | 30 | |
1951–52 | Manchester United (3) | Tottenham Hotspur | Arsenal | 33 | |
1952–53 | Arsenal (7) | Preston North End | Wolverhampton Wanderers | 24 | |
1953–54 | Wolverhampton Wanderers | West Bromwich Albion | Huddersfield Town | 29 | |
1954–55 | Chelsea | Wolverhampton Wanderers | Portsmouth | 27 | |
1955–56 | Manchester United (4) | Blackpool | Wolverhampton Wanderers | 33 | |
1956–57 | Manchester United (5) | Tottenham Hotspur | Preston North End | 38 | |
1957–58 | Wolverhampton Wanderers (2) | Preston North End | Tottenham Hotspur | 36 | |
1958–59 | Wolverhampton Wanderers (3) | Manchester United | Arsenal | 33 | |
1959–60 | Burnley (2) | Wolverhampton Wanderers | Tottenham Hotspur | 32 | |
1960–61 | Tottenham Hotspur (2) | Sheffield Wednesday | Wolverhampton Wanderers | 41 | |
1961–62 | Ipswich Town | Burnley | Tottenham Hotspur | 33 | |
1962–63 | Everton (6) | Tottenham Hotspur | Burnley | 37 | |
1963–64 | Liverpool (6) | Manchester United | Everton | 35 | |
1964–65 | Manchester United (6) | Leeds United | Chelsea F.C. | 29 | |
1965–66 | Liverpool (7) | Leeds United | Burnley | 29 | |
1966–67 | Manchester United (7) | Nottingham Forest | Tottenham Hotspur | 37 | |
1967–68 | Manchester City (2) | Manchester United | Liverpool | 28 | |
1968–69 | Leeds United | Liverpool | Everton | 27 | |
1969–70 | Everton (7) | Leeds United | Chelsea | 25 | |
1970–71 | Arsenal (8) | Leeds United | Tottenham Hotspur | 28 | |
1971–72 | Derby County | Leeds United | Liverpool | 33 | |
1972–73 | Liverpool[2] (8) | Arsenal | Leeds United | 28 | |
1973–74 | Leeds United (2) | Liverpool | Derby County | 21 | |
1974–75 | Derby County (2) | Liverpool | Ipswich Town | 21 | |
1975–76 | Liverpool[2] (9) | Queens Park Rangers | Manchester United | 23 | |
1976–77 | Liverpool[4] (10) | Manchester City | Ipswich Town | 25 | |
1977–78 | Nottingham Forest[4] | Liverpool | Everton | 30 | |
1978–79 | Liverpool (11) | Nottingham Forest | West Bromwich Albion | 24 | |
1979–80 | Liverpool (12) | Manchester United | Ipswich Town | 23 | |
1980–81 | Aston Villa (7) | Ipswich Town | Arsenal | 20 | |
1981–82 [5] | Liverpool[5](13) | Ipswich Town | Manchester United | 26 | |
1982–83 | Liverpool[4] (14) | Watford | Manchester United | 27 | |
1983–84 | Liverpool[3][4] (15) | Southampton | Nottingham Forest | 32 | |
1984–85 | Everton[6] (8) | Liverpool | Tottenham Hotspur | 24 | |
1985–86 | Liverpool (16) | Everton | West Ham United | 30 | |
1986–87 | Everton (9) | Liverpool | Tottenham Hotspur | 33 | |
1987–88 | Liverpool (17) | Manchester United | Nottingham Forest | 26 | |
1988–89 | Arsenal (9) | Liverpool | Nottingham Forest | 23 | |
1989–90 | Liverpool (18) | Aston Villa | Tottenham Hotspur | 24 | |
1990–91 | Arsenal (10) | Liverpool | Crystal Palace | 22 | |
1991–92 | Leeds United (3) | Manchester United | Sheffield Wednesday | 29 |
Ngoại hạng Anh (1992–nay)[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Vô địch | Điểm | Á quân | Điểm | Hạng ba | Điểm | Vua phá lưới | Bàn thắng |
1992–93 | Manchester United (8) | Aston Villa | Norwich City | 22 | ||||
1993–94 | Manchester United (9) | Blackburn Rovers | Newcastle United | 34 | ||||
1994–95 | Blackburn Rovers (3) | Manchester United | Nottingham Forest | 34 | ||||
1995–96 | Manchester United (10) | Newcastle United | Liverpool | 31 | ||||
1996–97 | Manchester United (11) | Newcastle United | Arsenal | 25 | ||||
1997–98 | Arsenal (11) | Manchester United | Liverpool | 18 | ||||
1998–99 | Manchester United[7] (12) | Arsenal | Chelsea | 18 | ||||
1999–2000 | Manchester United (13) | Arsenal | Leeds United | 30 | ||||
2000–01 | Manchester United (14) | Arsenal | Liverpool | 23 | ||||
2001–02 | Arsenal (12) | Liverpool | Manchester United | 24 | ||||
2002–03 | Manchester United (15) | Arsenal | Newcastle United | 25 | ||||
2003–04 | Arsenal[1] (13) | Chelsea | Manchester United | |||||
2004–05 | Chelsea[4] (2) | Arsenal | Manchester United | 25 | ||||
2005–06 | Chelsea (3) | Manchester United | Liverpool | 27 | ||||
2006–07 | Manchester United (16) | Chelsea | Liverpool | 20 | ||||
2007–08 | Manchester United (17) | Chelsea | Arsenal | 31 | ||||
2008–09 | Manchester United[4] (18) | Liverpool | Chelsea | 19 | ||||
2009–10 | Chelsea (4) | Manchester United | Arsenal | 29 | ||||
2010–11 | Manchester United (19) | Chelsea | Manchester City | 20 | ||||
2011–12 | Manchester City (3) | Manchester United | Arsenal | 30 | ||||
2012–13 | Manchester United (20) | Manchester City | Chelsea | 26 | ||||
2013–14 | Manchester City[4] (4) | Liverpool | Chelsea | 31 | ||||
2014–15 | Chelsea[4] (5) | Manchester City | Arsenal | 26 | ||||
2015–16 | Leicester City (1) | Arsenal | Tottenham Hotspur | 25 | ||||
2016–17 | Chelsea (6) | Tottenham Hotspur | Manchester City | 29 | ||||
2017–18 | Manchester City (5) | Manchester United | Tottenham Hotspur | 32 | ||||
2018–19 | Manchester City (6) | Liverpool | Chelsea | 22 | ||||
2019–20 | Liverpool (19) | Manchester City | Manchester United | 23 | ||||
2020–21 | Manchester City (7) | Manchester United | Liverpool | 23 | ||||
2021–22 | Manchester City (8) | Liverpool | Chelsea | 23 |
4000G Bằng Bao Nhiêu Kg – Bảng Đơn Vị Đo Khối Lượng
4000 Giây Bằng Bao Nhiêu Giờ – 4000 Phút Bằng Bao Nhiêu Giờ
330 Phút Bằng Bao Nhiêu Giờ – 0 4 Giờ Bằng Bao Nhiêu Phút
2 Và 3 4 Giờ Bằng Bao Nhiêu Phút – 5 Và 2(3 Ngày Bằng Bao Nhiêu Giờ)
1Hp Bằng Bao Nhiêu Ampe – 1Hp Bang Bao Nhieu W
1 Đội Bóng Đá Gồm Bao Nhiêu Người – Một Đội Bóng Rổ Có Bao Nhiêu Người
1 Tấn Bằng Bao Nhiêu Niutơn – 1 Tấn Bằng Bao Nhiêu Kg